Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tu Theo Hạnh Đầu Đà Hay Nhập Thế Độ Sanh?

12/05/202406:14(Xem: 8783)
Tu Theo Hạnh Đầu Đà Hay Nhập Thế Độ Sanh?


su minh tue-2
Tu Theo Hạnh Đầu Đà
Hay Nhập Thế Độ Sanh?



            Thời gian gần đây hiện tượng sư Thích Minh Tuệ tu theo hạnh Đầu Đà đi bộ từ Nam chí Bắc đã được quần chúng đủ mọi thành phần ngưỡng mộ. Họ chờ đón sư ở dọc đường, cúi đầu hoặc quỳ xuống lòng đường để đảnh lễ, tặng đồ ăn thức uống, có khi tháp tùng sư một đoạn đường dài. Có khi họ tụ tập quanh sư tại nơi nghỉ chân, có khi là nghĩa địa, một ngôi nhà hoang, hoặc dưới tàng cây, ngồi quanh sư để nghe sư thuyết pháp hoặc vấn hỏi một số vấn đề. Đặc biệt  tại Thanh Hóa có cả xe chở mấy chục học sinh Tiểu Học, tung tăng chạy tới để chiêm ngưỡng và vái lạy sư. Và lần đầu tiên một vị sư thuyết pháp tại một nghĩa địa.

            Sở dĩ sư Minh Tuệ được quần chúng ngưỡng mộ là vì :

-Sư là biểu tượng của sự đoạn diệt được lòng tham vì sư không nhận tiền bố thí mà chỉ nhận nước uống và đồ ăn trước giờ ngọ và không nhận nhiều để dành cho ngày hôm sau, trái ngược với lối sống của một số tăng ni sống sa hoa với điện thoại, xe sang và đồng hồ Rolex, kêu gọi Phật tử đem hết tài sản cúng chùa hầu được phước, gom góp tiền bạc của Phật tử gửi về cho cha mẹ xây nhà.

-Sư là biểu tượng sống động của thời Đức Phật còn tại thế với đầu trần, chân đất, y may bằng những mảnh vải nhặt được ở đống rác hay nghĩa địa. Sư không nhận những tấm vải đẹp do Phật tử bố thí. Sư không an trú tại bất cứ nơi nào quá ba ngày và tiếp tục du hành như thế cho đến chết.

-Sư là biểu tượng của sự tận diệt cái ngã khi xưng “con” với mọi người, khác hẳn với một số sự trẻ mới 30 tuổi mà xưng “thầy” và gọi các cụ 70, 80 tuổi là “con”. Sư khiêm tốn nói rằng mình không chứng đắc gì cả mà chỉ làm theo những gì Phật dạy. Ngày xưa chư Tổ chứng đắc rồi mới đăng đàn thuyết pháp. Ngày nay do nhu cầu hoằng pháp, các chùa đã tổ chức các lớp huấn luyện giảng sư trẻ, đời tu chưa bao nhiêu cho nên nói thì hay nhưng lời nói không đi đôi với việc làm khiến tổn hại tới giá trị của Đạo Phật và làm hoen ố các vị tu hành chân chính.

-Sư là biểu tượng của sự đoạt diệt si mê mà ngày nay có cả trăm ngàn thứ si mê đang say đắm lòng người như nữ trang, son phấn, quần áo, tiện nghi, xe cộ, ca nhạc, ma túy, tuyển lựa ca sĩ, thi hoa hậu, trẻ con mới năm ba tuổi  đã biết ca hát, nhảy múa trên sân khấu…

            Theo tôi, sự tôn kính nhiệt thành của quần chúng đưa tới hai hệ quả và cho chúng ta thấy:

-Đây là hình ảnh sống dậy của đạo Phật đang bắt sâu vào lòng quần chúng vốn là nền tảng tâm linh và đạo đức của dân tộc qua gần hai nghìn năm. Đó là dấu hiệu vô cùng đáng mừng. Đây là thành quả và công lao của bao tăng ni đã miệt mài công đức, ít ra là trong nửa thế kỷ qua. Sự bùng nổ của kỹ nghệ truyền thông và “bùng nổ” của những buổi thuyết pháp tại chùa hay trên các diễn đàn đã đem giáo lý của Đức Phật tới tận nhà của người dân. Trong cuộc sống đầy lo toan và căng thẳng đến chóng mặt của thời đại “Toàn cầu hóa” và “Cách mạng khoa học, kỹ thuật thứ năm” người dân đã bắt đầu thấy cần thiết phải có “ông Phật” trong tim hay trong nhà mình.  Khi nhìn thấy sư Minh Tuệ, quần chúng nhớ tới hình ảnh của Đức Phật năm xưa.

-Thế nhưng sự tán dương quá nhiệt tình của quần chúng đưa tới quan niệm cho rằng chỉ có sư Minh Tuệ là tu theo chánh pháp còn hàng chục ngàn tăng ni đang ở trong các chùa, tịnh xá, tu viện kia không tu theo chánh pháp, không phải là hình ảnh sống động của Đức Phật và các đại đệ tử khi Phật còn tại thế. Hình ảnh tăng ni hiện tại đang bị suy giảm trước nhãn quan của quần chúng.

            Là người học Phật, tha thiết đến đạo pháp và tiền đồ của dân tộc chúng ta phải suy nghĩ như thế nào?

-Có phải tu theo sư Minh Tuệ là theo đúng chánh pháp và phải tu như vậy chăng? Đúng vậy, tu theo sư Minh Tuệ là theo đúng chính pháp nhưng đó không phải là pháp tu duy nhất. Trong Kinh Kim Cang, Đức Phật dạy ngài Tu Bồ Đề rằng, “Pháp của Như Lai không hề có thấp cao” tức tu pháp nào cũng được, tùy theo căn cơ và tu đến nơi đến chốn. Còn trong Kinh Viên Giác (*) Đức Phật dạy ngài Phổ Giác Bồ Tát rằng, “Nếu có người nói rằng tôi diệt hết tất cả phiền não, thân-tâm hoàn toàn không, không có, huống là cảnh giới hư vọng của căn trần, tất cả đều là vắng lặng để cầu Viên Giác. Nhưng tính Viên Giác không phải là tướng vắng lặng, cho nên gọi đó là bệnh.” Rồi Đức Phật dạy ngài Viên Giác Bồ Tát, “Những chúng sinh có đủ căn tính đại thừa, hoặc Đức Phật còn tại thế hoặc sau khi Phật nhập diệt, hoặc đương thời mạt pháp muốn tu hành hoặc trụ trì một cảnh chùa, lĩnh coi đồ chúng mà có duyên sự thì tùy phận quán xét như tôi đã nói.” Như lời Phật đã dạy ngài Phổ Giác trong phần ở trên như sau, “Tuy là hiện trần lao, làm việc khó nhọc ở đời mà tâm thường thanh tịnh, thị hiện ra có lỗi lầm để tán thán hạnh thanh tịnh, không để chúng sinh sa vào chỗ không giới luật uy nghi.”

-Sư Minh Tuệ theo hạnh tịch tĩnh, không nhận đồ chúng (đệ tử và Phật tử) sống riêng một mình, không tăng đoàn, khổ hạnh…để đọan trừ phiền não giống như hạnh của các vị La Hán. Thế nhưng còn cả ngàn tăng ni đang trụ trì các ngôi chùa, thu nhận đệ tử và phục vụ quần chúng đang là các Bồ Tát nhập thế để “hằng thuận vì lợi ích của chúng sinh” thì sao?

-Tu theo hạnh Đầu Đà vì không còn tiếp xúc với đời cho nên ít hoặc không còn phiền não, tuy khổ hạnh nhưng dễ tu. Còn khi đã nhập thế thì “gần bùn” cho nên dễ “hôi tanh mùi bùn” và khó tu hơn và rất dễ sa ngã. Chính vì thế mà các bậc tu hành, an trú tại một tự viện, thu nhận đệ tử, giáo hóa và làm theo lợi ích của chúng sinh mà tâm không hề để “hôi tanh mùi bùn” như Lục Tổ nói rằng, “Hà xứ nhạ trần ai?” thì đích thực đây là các thánh tăng. Cho nên chúng ta không thể coi thường các vị đang tu hành chân chính tại các chùa, tịnh xá và tu viện.

-Cứ thử tưởng tượng khoảng ba chục ngàn tăng ni trong nước và cả ngàn tăng ni hải ngoại bỏ cả chùa chiền, tu viện thành hoang phế để tu theo hạnh Đầu Đà để cho đúng chánh pháp và được quần chúng ngưỡng mộ thì Phật Giáo sẽ ra sao? Theo tôi Đạo Phật sẽ hủy diệt. Theo các nhà nghiên cứu lịch sử, Đạo Phật suy tàn tại Ấn Độ là vì sau khi Đức Phật nhập diệt, các đệ tử của ngài lui vào các hang động và núi rừng để ẩn tu và không thành lập được một giáo hội và các cộng đồng Phật tử vững mạnh tại các đô thị lớn. Chính vì thế mà Phật Giáo không có ảnh hưởng hay sức mạnh để tác động tới chính quyền và sự tồn vong của đất nước. Sự thành lập một giáo hội và các tăng đoàn rất quan trọng. Chùa là nơi quy tụ quần chúng Phật tử, là nơi tu học và hằng thuận vì lợi ích của chúng sinh như Vu Lan Báo Hiếu, các lễ Hằng Thuận, cầu an cho gia đình và cầu siêu cho vong linh người đã khuất, nuôi dạy cô nhi cùng tổ chức các đại lễ cầu Quốc Thái Dân An cho quốc gia. Cứ thử tưởng tượng cả chục ngàn tăng ni lang thang khắp đất nước, ngủ ở núi rừng, nghĩa trang, gò mả, ngày ngày đi xin ăn… lúc đó sẽ là hình ảnh không đẹp, mất vệ sinh và gây khó khăn cho đời sống của người dân. Với đời sống cá nhân như thế, không tăng đoàn thì làm sao tổ chức được các đại hội Phật Giáo trên toàn thế giới để nói về những vấn nạn của thời đại như biến đổi khí hậu, bạo động, chiến tranh, con người chạy đua theo vật chất quá đáng? Không hợp quần, không tổ chức thì làm sao có được đại lễ Vesak nhân ngày Phật Đản với sự tham dự của các tổ chức Phật Giáo trên toàn thế giới cùng với sự tham dự của Liên Hiệp Quốc và các vị lãnh đạo quốc gia của các quốc gia Phật Giáo? Phật Giáo đã trải qua hơn 2600 năm. Cốt tủy của Đạo Phật vẫn còn nguyên nhưng pháp tu phải thích ứng với thời thế theo lời dạy “Tùy duyên nhưng bất biến”. Nam Tông tu hơi khác Bắc Tông và Mật Tông, nhưng Tâm của tất cả đều “đồng một pháp tính”. Tất cả đều là con Phật và đều thành Phật.

-Với trình độ văn minh, khoa học và đầu óc chuộng luận lý (logic) người Hoa Kỳ và Âu Châu không quý trọng lối tu khổ hạnh hay ép xác đã có trong tôn giáo của họ từ ngàn xưa. Họ quý trọng một người tu hành bình thường nhưng có phẩm hạnh và trí tuệ tuyệt vời và nhất là lòng Từ Bi và bao dung. Cho nên pháp tu Thiền và ngày nay Mật Tông đã phát triến mạnh trong thế giới Tây Phương. Nếu hình ảnh và lối sống của sư Minh Tuệ được phổ biến ở các quốc gia Tây Phương họ sẽ ngạc nhiên tự hỏi, “Tu ép xác như vậy để làm gì? Bộ tu hành trong các tu viện không chứng đắc và giải thoát sao?” Đạo Phật được cả thế giới ngưỡng mộ không phải vì pháp tu khổ hạnh mà là một tôn giáo của trí tuệ, hòa bình, bao dung, bình đẳng và bảo vệ môi trường.


su minh tue



            Vậy thì quý Phật tử Việt Nam chớ vì lòng cung kính với sư Minh Tuệ mà coi nhẹ bao nhiêu tăng ni trong và ngoài nước đã và đang tu hành chân chính, làm công việc cứu khổ, độ sinh và giữ gìn giềng mối tâm linh, đạo đức cho dân tộc trong bao nhiêu năm qua. Bản thân tôi rất quý trọng cá nhân và pháp tu của sư Minh Tuệ nhưng đó không phải là pháp tu duy nhất.         Phật có tới 84,000 pháp môn cho tăng ni, tùy căn cơ và hạnh nguyện của từng người. Hiện có một vị sư Trung Hoa đang hoằng pháp tại Phi Châu. Sư đã phát nguyện sau khi vãng sinh, ngài sẽ tái sinh tại Phi Châu để tiếp tục làm công việc hoằng hóa chúng sinh tại lục địa đen này. Phải chăng đây là một vị bồ tát vào chốn trần lao gian khổ để giáo hóa chúng sinh như lời dạy của Phật trong Kinh Viên Giác mà đâu cần phải tu theo hạnh Đầu Đà? Và cũng chẳng thể đi xin ăn vì dân nghèo đói như thế lấy đâu đồ ăn cho người khác. Cuối cùng thì cũng phải an trú trong tu viện và nhờ vào sự cúng dường của thí chủ để hành đạo mà thôi. Trong Kinh Pháp Hoa, Đức Phật nói rằng tất cả chỉ là “phương tiện”. Bồ Tát nhập thế phải dùng tất cả “phương tiện” để độ sinh nhưng tâm không trụ vào “phương tiện” như thế mới là bồ tát. Vậy xin chớ nhìn vào “phương tiện” để đánh giá bồ tát.

            Sư Minh Tuệ là đóa hoa thơm trong vườn hoa Phật Giáo nhưng còn rất nhiều đóa hoa quý  khác thường như Đạt Ma Tổ Sư rồi tới Lục Tổ, Phật Hoàng Trần Nhân Tông, Bồ Tát Quảng Đức và bao thánh tăng, thiền sư của Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản cùng Đức Đạt Lai Lạt Ma của thời đại ngày hôm nay. Xin cúi đầu đảnh lễ tất cả.

            Thế giới này là thế giới của Nhị Nguyên tương đối và không thể có Tuyệt Đối. Chỉ có Tâm là thành Phật còn thế giới vật chất thì muôn đời vẫn như thế. Trước khi Phật ra đời con chim đã ăn con sâu. Khi Phật thành đạo và chuyển pháp luân con chim vẫn ăn con sâu. Và sau khi Phật nhập diệt, con chim vẫn ăn con sâu cho tới ngày hôm nay. Dù Thái Tử Tất Đạt Đa tu thành Phật nhưng vẫn không thay đổi được thế giới này đó là Luật Vô Thường và Sinh-Lão-Bệnh-Tử . Khi đói Phật vẫn phải ăn. Do đó con đường đúng đắn và dòng chính vẫn là Trung Đạo, tức sống ở đời bình thường nhưng giữ nghiêm giới luật và vui với đạo như lời dạy của Phật Hoàng Trần Nhân Tông,  “Cư trần lạc đạo” và đặt đức Từ Bi lên hàng đầu. Còn Phật xuất thế thì phải chờ thêm vài ngàn năm nữa.

Thiện Quả Đào Văn Bình

(California ngày 10/5/2024)

(*) Bản dịch của Cụ Thích Huyền Cơ, Hà Nội 1952

 



 



Xem bài liên quan:

🌷Hãy là những người mộ đạo văn minh

🌷Tu Theo Hạnh Đầu Đà Hay Nhập Thế Độ Sanh?

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
04/01/2022(Xem: 8479)
Không hiểu sao mỗi khi nhớ về những sự kiện của năm 1963 lòng con bổng chùng lại, bồi hồi xúc động về quá khứ những năm đen tối xảy đến gia đình con và một niềm cảm xúc khó tả dâng lên...nhất là với giọng đọc của Thầy khi trình bày sơ lược tiểu sử Đức Ngài HT Thích Trí Quang ( một sưu tầm tài liệu tuyệt vời của Giảng Sư dựa trên “ Trí Quang tự truyện “ đã được đọc tại chùa Pháp Bảo ngày 12/11/2019 nhân buổi lễ tưởng niệm sự ra đi của bậc đại danh tăng HT Thích Trí Quang và khi online cho đến nay đã có hơn 45000 lượt xem). Và trước khi trình pháp lại những gì đã đươc nghe và đi sâu vào chi tiết bài giới thiệu Bộ Pháp Ảnh Lục cùng lời cáo bạch của chính Đức Ngài HT Thích Trí Quang về bộ sách này, kính trich đoạn vài dòng trong tiểu sử sơ lược của HT Thích Trí Quang do Thầy soạn thảo mà con tâm đắc nhất về;
04/01/2022(Xem: 7242)
Trên đất nước ta, rừng núi nào cũng có cọp, nhưng không phải vô cớ mà đâu đâu cũng truyền tụng CỌP KHÁNH HÒA, MA BÌNH THUẬN. Tỉnh Bình Thuận có nhiều ma hay không thì không rõ, nhưng tại tỉnh Khánh Hòa, xưa kia cọp rất nhiều. Điều đó, người xưa, nay đều có ghi chép lại. Trong sách Hoàng Việt Nhất Thống Dư Địa Chí (1) của Thượng Thư Bộ Binh Lê Quang Định soạn xong vào năm 1806 và dâng lên vua Gia Long (1802-1820), tổng cộng 10 quyển chép tay, trong đó quyển II, III và IV có tên là Phần Dịch Lộ, chép phần đường trạm, đường chính từ Kinh đô Huế đến các dinh trấn, gồm cả đường bộ lẫn đường thủy. Đoạn đường ghi chép về ĐƯỜNG TRẠM DINH BÌNH HÒA (2) phải qua 11 trạm dịch với đoạn đường bộ đo được 71.506 tầm (gần 132 km)
04/01/2022(Xem: 6134)
Ngoài tên “thường gọi” là Cọp, là Hổ, tiếng Hán Việt là Dần, cọp còn có tên là Khái, là Kễnh, Ba Cụt (cọp ba chân), Ba Ngoe (cọp ba móng), Ông Chằng hay Ông Kẹ, Ông Dài, Ông Thầy (cọp thành tinh). Dựa vào tiếng gầm của cọp, cọp còn có tên gọi là Hầm, là Hùm, dựa vào sắc màu của da là Gấm, là Mun ... Ở Nam Bộ cò gọi cọp là Ông Cả, vì sợ cọp quấy phá, lập miếu thờ, tôn cọp lên hàng Hương Cả là chức cao nhất trong Ban Hội Tề của làng xã Nam Bộ thời xưa. Cọp cũng được con người gọi lệch đi là Ông Ba Mươi. Con số ba mươi này có nhiều cách giải thích: - Cọp sống trung bình trong khoảng ba mươi năm. - Cọp đi ba mươi bước là quên hết mọi thù oán. - Xưa, triều đình đặt giải, ai giết được cọp thì được thưởng ba mươi đồng, một món tiền thưởng khá lớn hồi đó. - Tuy nhiên, cũng có thời, ai bắt, giết cọp phải bị phạt ba mươi roi, vì cho rằng cọp là tướng nhà Trời, sao dám xúc phạm (?). Ngày nay, cọp là loài vật quý hiếm, có trong sách Đỏ, ai giết, bắt loài thú này không những bị phạt tiền mà còn ở
30/12/2021(Xem: 7044)
Tối ngày 11/02 âm lịch (03/03/2012), vào lúc 10 giờ tối, lúc đó tôi niệm Phật ở dưới hai cái thất mà phía trên là phòng của Sư Ông. Khi khóa lễ vừa xong, bỗng nghe (thấy) tiếng của đầu gậy dọng xuống nền phát ra từ phòng của Sư Ông. Lúc đó tôi vội vàng chạy lên, vừa thấy tôi, Ông liền bảo: “Lấy cái đồng hồ để lên đầu giường cho Sư Ông và lấy cái bảng có bài Kệ Niệm Phật xuống” (trong phòng Sư Ông có treo cái bảng bài Kệ Niệm Phật). Khi lấy xuống Sư Ông liền chỉ vào hai câu: Niệm lực được tương tục, đúng nghĩa chấp trì danh, rồi Sư Ông liền chỉ vào mình mà ra hiệu, ý Sư Ông nói đã được đến đây, sau khi ngồi hồi lâu Sư Ông lên giường nghỉ tiếp.
25/12/2021(Xem: 5325)
Cảo San đường Tuệ Nguyên Đại Tông sư (고산당 혜원대종사, 杲山堂 慧元大宗師) sinh ngày 8 tháng 12 năm 1933 tại huyện Ulju, Ulsan, một thành phố nằm ở phía đông nam Hàn Quốc, giáp với biển Nhật Bản. Ngài vốn sinh trưởng trong tộc phả danh gia vọng tộc, phụ thân Họ Ngô (해주오씨, 海州吳氏), Haeju, Bắc Triều Tiên và tộc phả của mẫu thân họ Park (밀양박씨, 密陽朴氏), Miryang, Gyeongsangnam-do, Hàn Quốc. Năm lên 7 tuổi, Ngài được sự giáo huấn của người cha kính yêu tuyệt vời, cụ đã dạy các bộ sách Luận ngữ, Mạnh Tử, Thích Độ, Đại Học, Tứ Thư và học trường tiểu học phổ thông. Vào tháng 3 năm Ất Dậu (1945), khi được 13 tuổi, Bồ đề tâm khai phát để làm tiền đề cho Bát Nhã đơm bông, Ngài đảnh lễ Đại Thiền sư Đông San Tuệ Nhật (동산혜일대선사, 東山慧日大禪師, 1890-1965) cầu xin xuất gia tu học Phật pháp. Thật là “Đàm hoa nhất hiện” khi những sợi tóc não phiền rơi rụng theo từng nhát kéo đong đưa. Tháng 3 năm 1948, Ngài được Hòa thượng Bản sư truyền thụ giới Sa di tại Tổ đình Phạm Ngư Tự (범어사, 梵魚寺), Geumjeong-gu, Busan, Hàn Qu
23/12/2021(Xem: 4007)
Chánh Điện của một ngôi Chùa tại xứ Đức, cách đây hơn 40 năm về trước; nơi có ghi hai câu đối: "Viên thành đạo nghiệp Tây Âu quốc. Giác ngộ chúng sanh đạo lý truyền", bây giờ lại được trang hoàng thật trang nghiêm và rực rỡ với các loại hoa. Đặc biệt nhất vẫn là những chậu cây Trạng Nguyên nhỏ to đủ kiểu, nổi bật nhất vẫn là những chiếc lá đỏ phía trên phủ lên những chiếc lá xanh bên dưới. Ai đã có ý tưởng mang những cây Nhất Phẩm Hồng, có nguồn gốc ở miền Nam Mexico và Trung Mỹ vào đây? Và theo phong thủy, loại cây này mang đến sự thành công, đỗ đạt và may mắn.
10/12/2021(Xem: 8647)
Bản dịch này cũng đã đăng tải trong các số báo đặc san Pháp Bảo, từ số 2, tháng 5 năm 1982 và còn tiếp tục đăng tải cho đến nay. Loạt bài đăng trong báo sẽ được chấm dứt trong vài kỳ báo nữa, vì các phần sau tuy cần thiết đối với người muốn nghiên cứu, nhưng lại trở nên khô khan với người ít quan tâm tới sử liệu Phật Giáo. Đó là lý do quý vị chỉ tìm thấy bản dịch được đầy đủ chỉ có trong sách này. Trong khi dịch tác phẩm, cũng như trong khoảng thời gian còn tòng học tại Nhật Bản, chúng tôi tự nghĩ: không hiểu sao Phật giáo đã du nhập vảo Việt Nam từ thế kỷ thứ 2, thứ 3 mà mãi cho tới nay vẫn chưa có được những cuốn sách ghi đầy đủ các chi tiết như bộ “Các tông phái Phật Giáo Nhật Bản” mà quý vị đang có trong tay. Điều mong mỏi của chúng tôi là Phật Giáo Việt Nam trong tương lai cố sao tránh bớt vấp phải những thiếu sót tư liệu như trong quá khứ dài hơn 1500 năm lịch sử truyền thừa! Để có thể thực hiện được điều này, cần đòi hỏi giới Tăng Già phải đi tiên phong trong việc trước t
09/12/2021(Xem: 23069)
Cách đây vài ngày đọc trên một tờ báo tại Sydney , khi nói về chủng thể Omicron vừa phát tán và lây lan do xuất phát từ các nước Nam Phi , tôi chợt mỉm cười khi đọc được câu này " Chúng ta đã học từ nạn đại dịch một điều rằng : Đừng nên hy vọng một điều gì , vì chắc chắn điều mình hy vọng ấy sẽ chỉ là THẤT VỌNG " If there’s one thing COVID has taught us , it is to expect nothing, except disappointment . What it comes to that COVID really delivers
08/12/2021(Xem: 4666)
Già San Đường Trí Quán Đại Tông Sư, vị đại học giả, vị Luật sư, Thiền sư nổi tiếng, vị Tổng vụ trưởng xuất sắc trong việc quản lý các vấn đề hành chính Phật giáo. Ngài được ca tụng lảu thông Tam tạng giáo điển, lý sự viên dung. Già San Đường Trí Quán Đại Tông Sư (가산당 지관대종사, 伽山堂 智冠大宗師, 1932-2012) tục danh Lý Hải Bằng (이해붕, 李海鵬), theo tộc phả tên Chung Bằng (종붕, 鍾鵬), Tổng vụ Viện trưởng Thiền phái Tào Khê đời thứ 32, Phật giáo Hàn Quốc, hiệu Già Sơn đường Trí Quán Đại tông sư (가산당지관대종사, 伽山堂智冠大宗師), sinh ngày 14/6/1932 (05/11/Nhâm Thân), nguyên quán làng Cheonghae-myeon, huyện Gyeongju, tỉnh Gyeongsangbuk-do, Đại Hàn. Phụ thân của Ngài là cụ ông Lý Khuê Bạch (이규백, 李圭白) và Hiền mẫu của Ngài là cụ bà Kim Tiên Y (김선이, 金先伊). Gia đình truyền thống Phật giáo lâu đời, kính tin Tam bảo.
30/11/2021(Xem: 32350)
316. Thi Kệ Bốn Núi do Vua Trần Thái Tông biên soạn. Trần Thái Tông (1218-1277), là vị vua đầu tiên của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam (triều đại kéo dài đến 175 năm sau, ông cũng là một Thiền sư đắc đạo và để lại những tác phẩm Phật học vô giá cho đời sau). Đây là Thời Pháp Thoại thứ 316 của TT Nguyên Tạng, cũng là bài giảng cuối của năm thứ 2 (sẽ nghỉ qua sang năm sẽ giảng lại) từ 6.45am, Thứ Ba, 30/11/2021 (26/10/Tân Sửu) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️ Múi giờ : pháp thoại của TT Trụ Trì Thích Nguyên Tạng (trong thời gian cách ly vì đại dịch Covid-19) về chư vị Tổ Sư Ấn Độ, Trung Hoa, Việt Nam…) - 06: 45am (giờ Melbourne, Australia) - 12:45pm (giờ Cali, USA) - 03:45pm (giờ Montreal, Canada) - 09:45pm (giờ Paris, France) - 02:45am (giờ Saigon, Vietnam) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹 💐🌹🥀🌷🍀💐🌼🌸🏵️🌻🌼💮🍂🍁🌾🌱🌿🍃 Youtube: Tu Viện Quảng Đức (TT Thích Tâm Phương, TT Thích Nguyên Tạng, Melbourne, Australia) https://www.youtube.com
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]