Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

55. Thiền Sư Hoàng Bá Hi Vận

12/10/202120:06(Xem: 17391)
55. Thiền Sư Hoàng Bá Hi Vận


203_TT Thich Nguyen Tang_Thien Su Hoang Ba Hy Van
Nam mô A Di Đà Phật

Kính bạch Sư Phụ

Bạch Sư Phụ, hôm nay chúng con được học bài thứ 203 về Thiền Sư Hoàng Bá Hi Vận. Ngài thuộc đời thứ tư sau lục tổ Huệ Năng, là đệ tử đắc pháp của Thiền Sư Bách Trượng Hoài Hải và cũng là người đặt nền móng vững chắc cho Thiền phái Lâm Tế (Sư phụ của Thiền Sư Nghĩa Huyền, người khai sáng thiền phái Lâm Tế).

Ngài Hoàng Bá Hi Vận, người tỉnh Phúc Kiến, tiếng nói có âm thanh trong trẻo, tướng cao lớn và đẹp đẽ, trên trán có một cục thịt vun lên như viên bảo châu như ý.

Một hôm trên đường đến chiêm bái núi Thiên Thai, tỉnh Chiết Giang, Ngài gặp một vị Tăng trông rất quen thuộc, nhìn kỷ thì là một người “mục quang xạ”, Sư Phụ giải thích là như người đã chết. Ngài Hoàng Bá không sợ nên cùng đi cùng nói chuyện. Khi đến một suối đầy nước và chảy mạnh, vị Tăng thúc Ngài đi qua. Ngài bảo vị Tăng ấy cứ tự đi qua, vị Tăng đi trên mặt nước (hiển thị thần thông). Ngài Hoàng Bá thấy vậy nên cảnh cáo vị Tăng kia không nên khoe khoan về thần thông của mình, nếu có thì tự biết tự tu chứ không nên hiển thị ra ngoài. Vị Tăng ấy không giận mà mở lời khen ngợi ngài Hoàng Bá là người có khí chất đại thừa và sau đó biến mất.

Sư Phụ giải thích, người tu khi đạt thấy tánh, tận diệt hết phiền não nhiễm ô, tự nhiên sẽ có thần thông diệu dụng, và chỉ sử dụng thần thông đúng lúc và cần thiết như Tổ Mã Minh bắt tại trận một tên ngoại đạo biến thành một con sâu chui vào bồ đoàn của Ngài để nghe trộm pháp, con sâu này chính là ngài Ca Tỳ Ma La, sau đó đã quy phục Tổ Mã Minh xuất gia tu học và trở thành vị Tổ PG Ấn Độ thứ 13. Sử dụng thần thông để hóa độ trong trường hợp này là không phạm.

Ngài Hoàng Bá đến Nam Xương, đảnh lễ tháp Mã Tổ, gặp TS Bách Trượng có tịnh thất ở gần.

Ngài Hoàng Bá hỏi Tổ Bách Trượng " Tông thừa từ xưa chỉ dạy như thế nào? "
TS Bách Trượng im lặng không trả lời.
Sư Phụ giải thích "Tông thừa" ở đây là chỉ cho Phật tánh, hành giả phải tự nhận biết, nên Tổ im lặng, nếu trả lời là vọng tưởng, điên đảo.

Ngài Hoàng Bá nói “Sp im lặng như thế thì không thể dạy bảo người đời sau, Pháp sẽ dứt tuyệt “.
TS Bách Trượng nói :”Tưởng con là một con người “. Rồi bỏ đi về Phương trượng
Ngài Hoàng Ba theo sau và tự nhận : “Người đặc biệt đến đây”.
TS Bách Trượng đã thầm nhận qua câu nói: “ Nếu vậy thì sau này con không được cô phụ ta”.


Kính mời xem tiếp



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/11/2011(Xem: 4415)
Tôi có ý nghĩ viết thành tập sách này vào đầu năm nay 97, nhân kỷ niệm mười năm tôi được xuất gia học đạo. Mười năm thường là cái mốc thời gian đáng nhớ cho những sự cố gì xảy ra trong một đời người. Sự cố ấy mang ý nghĩa của đổi thay dù sự đổi thay đó mang tính cách thế tục hay xuất thế. Trong đạo thầy đã dạy tôi rằng: "Sau một thời gian tu tập con cần nên cứu xét lấy mình, ngắn thì mỗi năm, dài thì năm năm, mười năm. Sau khoảng một thời gian dài ấy mà con thấy có niềm tin hơn, ý chí hơn trong sự tu tập thì đó là con đã tiến bộ. Giảm niềm tin, thiếu tinh tấn chính là con đã lui sụt. Tu tập mà không tiến bộ tức là thua sút, yếu hèn, phụ bạc công ơn thầy tổ nuôi nấng và sự thọ nhận cúng dường của đàn na thí chủ".
04/11/2011(Xem: 4224)
Tiếng súng nổ từ xa, dù lớn dù nhỏ, vẫn là chuyện thông thường không thắc mắc đối với dân Quảng Ngãi trong thời chiến tranh. Nhưng đêm nay, đêm mồng một Tết, tiếng súng nổ bên tai làm cả nhà tôi bàng hoàng. Không ai bảo ai đều giật mình thức giấc rồi chạy ào xuống nhà núp dưới chân cầu thang. Tiếng súng nổ gần quá, tôi nghe cả tiếng hô hoán: “Tiến lên!” giọng Bắc rặc của một người chỉ huy nào đó. Trời! Không lẽ mặt trận đang diễn ra trong thành phố? Tim tôi đập loạn xạ, dù mồ hôi vã ra, răng tôi vẫn đánh bò cạp. Tôi rúc vào lòng năm chị em gái và ba má của tôi. Tiếng khóc thút thít vì sợ hãi muốn oà ra nhưng tôi cố dằn lòng sợ địch quân nghe thấy. Ầm! Một trái pháo kích rớt trúng nhà phía sau của tôi. Ngói bể rơi loảng xoảng, khói đạn bay mịt mù. Tôi chỉ kịp thét lên, ôm cứng lấy má tôi, hồn như bay khỏi xác. Đó là năm Mậu Thân 1968, lúc tôi 14 tuổi.
27/10/2011(Xem: 19214)
Bùi Giáng, Người viết sách với tốc độ kinh hồn
12/10/2011(Xem: 19391)
Truyện thơ Tôn giả La Hầu La - Tác giả: Tâm Minh Ngô Tằng Giao
01/10/2011(Xem: 7360)
Hàng ngũ phật tử thường được chia là phật tử tại gia và phật tử xuất gia. Các phật tử tại gia thường được gọi là cư sĩ. Trong lịch sử đạo Phật có ghi lại chuyện một số các vị cư sĩ nổi tiếng, tuy các vị ấy không xuất gia nhưng về phương diện tu hành, thấu hiểu đạo lý thì không thua kém gì các vị đã xuất gia. Có nhiều vị cư sĩ nổi tiếng nhưng bài này chỉ xin nhắc đến ông Duy Ma Cật, bà hoàng hậu Thắng Man, cư sĩ Huệ Năng lúc chưa xuất gia và sau đó đến gia đình ông Bàng Uẩn.
25/09/2011(Xem: 3841)
Lời hát ru nhẹ nhàng mà trầm buồn da diết ấy đi vào trong cả giấc mơ của Hiền. Bao lần chị giựt mình thảng thốt ngồi bật dậy… ngơ ngác nhìn quanh. Chẳng có gì khác ngoài bóng đêm lạnh giá bao trùm hai dãy xà lim hun hút. Chốc chốc vẳng lại tiếng thạch sùng chặc lưỡi, tiếng chí chóe của mấy chú tí ưa khuấy rối trong xó tối. Và cả tiếng thở dài của ai đó dội qua mấy bức tường xanh rêu im ỉm…
24/09/2011(Xem: 2856)
Ngày xưa có một chàng trai tên là Na Á. Anh mồ côi cha từ sớm, ở với mẹ già. Nhà Na Á nghèo, anh phải làm nghề đánh cá để nuôi thân, nuôi mẹ.
24/09/2011(Xem: 2903)
Một hôm em bé ngồi trong bóng cây trú nắng, gió cũng thổi mát quá, em ngủ quên, đến lúc thức dậy, thì đàn trâu đã đi mất. Em tìm khắp cánh đồng mà chẳng thấy.
21/09/2011(Xem: 2914)
Tờ Chú (có nghĩa là anh đen) nghèo nhất làng. Họ nghèo lắm, nghèo đến nỗi không có một con dao mẻ để phát nương, một cái thuổng để đào củ mài.
21/09/2011(Xem: 2777)
Ngày xưa, ở xã Đại An gần cù lao Huân tỉnh Khánh Hòa có một đôi vợ chồng già không có con cái. Ông bà ở trong một căn nhà lá dựng bên vách núi, làm nghề trồng dưa.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]