Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

09. Thiền Sư Vĩnh Gia Huyền Giác

12/10/202111:31(Xem: 16146)
09. Thiền Sư Vĩnh Gia Huyền Giác


108_TT Thich Nguyen Tang_Thien Su Huyen Giac


Nam mô A Di Đà Phật

Kính bạch Sư Phụ

Bạch Sư Phụ, hôm nay chúng con được học bài giảng về Tổ Vĩnh Gia Huyền Giác.

Thiền sư Vĩnh Gia Huyền Giác, quê ở huyện Vĩnh Gia, tỉnh Chiết Giang. Ngài xuất gia từ nhỏ và ngộ tánh khi đọc kinh Duy Ma Cật. Người phát hiện ngà ngộ tánh là người bạn đồng tu là thiền sư Huyền Sách. Ngài Huyền sách nói với ngài Huyền Giác rằng “Từ đức Phật Oai Âm Vương về trước, không có thầy chứng minh thì được. Từ đức Phật Oai Âm Vương về sau, không thầy tự ngộ đều là ngoại đạo", sau đó TS Huyền Sách giới thiệu ngài Huyền Giác đến gặp Lục Tổ Năng để được ấn chứng


Ngài đến Tào Khê, cầm tích trượng đi vòng quanh Lục Tổ ba lần rồi nhìn Tổ, nên bị Lục Tổ quở "Phàm làm Sa môn phải đủ ba ngàn oai nghi, tám muôn tế hạnh, Đại đức từ đâu đến mà lớn lối ngạo mạn vậy ?"

Con cảm ơn Sư Phụ đã giải thích chi tiết cụm từ này của Tổ: "ba ngàn oai nghi, tám muôn tế hạnh" (Tam Thiên Oai, Bát Vạn Tế Hạnh) là: 1 vị Tỳ kheo giữ 250 giới x 4 oai nghi (đi, đứng, ngồi, nằm) = 1000 x 3 thời (quá khứ , hiện tại, vị lai) = 3000 oai nghi. Lấy 3000 oai nghi này x 7 nghiệp (thân 3, khẩu 4) = 21,000 x 4 nhiếp pháp = 80,000 vạn tế hạnh. 

Tiếp đó là màn đối đáp giữa ngài Vĩnh Gia Huyền Giác và Lục Tổ Huệ Năng mà Sư phụ diễn tả như một trận đấu kiếm giữa 2 địch thủ, rất hay và hào hứng:

Ngài Huyền Giác: Sanh tử sự đại, Vô thường tấn tốc ( Sư phụ giải thích: ý nói vô thường sống chết đến nhanh, phải lo tu, không có thời giờ để chào hỏi)


Lục Tổ: Hà bất thể thủ vô sanh, Liễu vô tốc hồ (Sư phụ giải thích: Tổ vặn lại "tại sao không nhận cái lý “Vô sanh” và thấu rõ cái nghĩa “không chóng” đó, nhận được cái đó thì không cần phải lo lắng vô thường sanh tử nữa)

Ngài Huyền Giác: Thể tức vô sanh, liễu bổn vô tốc. ( Thể tức vô sinh, thấu vốn không chóng ).

Lục Tổ: Như thị! Như thị! ( Đúng thế! Đúng thế! )

Ngài Huyền Giác:  sup lạy tạ ơn Tổ sư và xin ra về.

Lục Tổ: Phản thái tốc hồ? ( Về chóng thế sao? )

Ngài Huyền Giác:  Bổn tự phi động, khởi hữu tốc đa? (Sư phụ giải thích: ngài HG đở nhát kiêm này tài tình: Vốn mình không động, làm gì có mau chóng)
Lục Tổ: Thuỳ tri phi động? (Sư phụ giải thích: Lục Tổ tấn công quyết liệt: "Ai biết chẳng phải động" )

Ngài Huyền Giác: Nhân giả tự sinh tâm phân biệt. (Ấy là tại vị Tổ sự sinh tâm phân biệt đó thôi)

Lục Tổ: Nhữ thậm đắc vô sinh chi ý (Sư phụ giải thích: Lục Tổ ngợi khen nhưng gài bẫy ngài HG "Con thực đã thấu được cái ý vô sinh")


Kính mời xem tiếp



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/11/2011(Xem: 4415)
Tôi có ý nghĩ viết thành tập sách này vào đầu năm nay 97, nhân kỷ niệm mười năm tôi được xuất gia học đạo. Mười năm thường là cái mốc thời gian đáng nhớ cho những sự cố gì xảy ra trong một đời người. Sự cố ấy mang ý nghĩa của đổi thay dù sự đổi thay đó mang tính cách thế tục hay xuất thế. Trong đạo thầy đã dạy tôi rằng: "Sau một thời gian tu tập con cần nên cứu xét lấy mình, ngắn thì mỗi năm, dài thì năm năm, mười năm. Sau khoảng một thời gian dài ấy mà con thấy có niềm tin hơn, ý chí hơn trong sự tu tập thì đó là con đã tiến bộ. Giảm niềm tin, thiếu tinh tấn chính là con đã lui sụt. Tu tập mà không tiến bộ tức là thua sút, yếu hèn, phụ bạc công ơn thầy tổ nuôi nấng và sự thọ nhận cúng dường của đàn na thí chủ".
04/11/2011(Xem: 4224)
Tiếng súng nổ từ xa, dù lớn dù nhỏ, vẫn là chuyện thông thường không thắc mắc đối với dân Quảng Ngãi trong thời chiến tranh. Nhưng đêm nay, đêm mồng một Tết, tiếng súng nổ bên tai làm cả nhà tôi bàng hoàng. Không ai bảo ai đều giật mình thức giấc rồi chạy ào xuống nhà núp dưới chân cầu thang. Tiếng súng nổ gần quá, tôi nghe cả tiếng hô hoán: “Tiến lên!” giọng Bắc rặc của một người chỉ huy nào đó. Trời! Không lẽ mặt trận đang diễn ra trong thành phố? Tim tôi đập loạn xạ, dù mồ hôi vã ra, răng tôi vẫn đánh bò cạp. Tôi rúc vào lòng năm chị em gái và ba má của tôi. Tiếng khóc thút thít vì sợ hãi muốn oà ra nhưng tôi cố dằn lòng sợ địch quân nghe thấy. Ầm! Một trái pháo kích rớt trúng nhà phía sau của tôi. Ngói bể rơi loảng xoảng, khói đạn bay mịt mù. Tôi chỉ kịp thét lên, ôm cứng lấy má tôi, hồn như bay khỏi xác. Đó là năm Mậu Thân 1968, lúc tôi 14 tuổi.
27/10/2011(Xem: 19214)
Bùi Giáng, Người viết sách với tốc độ kinh hồn
12/10/2011(Xem: 19391)
Truyện thơ Tôn giả La Hầu La - Tác giả: Tâm Minh Ngô Tằng Giao
01/10/2011(Xem: 7360)
Hàng ngũ phật tử thường được chia là phật tử tại gia và phật tử xuất gia. Các phật tử tại gia thường được gọi là cư sĩ. Trong lịch sử đạo Phật có ghi lại chuyện một số các vị cư sĩ nổi tiếng, tuy các vị ấy không xuất gia nhưng về phương diện tu hành, thấu hiểu đạo lý thì không thua kém gì các vị đã xuất gia. Có nhiều vị cư sĩ nổi tiếng nhưng bài này chỉ xin nhắc đến ông Duy Ma Cật, bà hoàng hậu Thắng Man, cư sĩ Huệ Năng lúc chưa xuất gia và sau đó đến gia đình ông Bàng Uẩn.
25/09/2011(Xem: 3841)
Lời hát ru nhẹ nhàng mà trầm buồn da diết ấy đi vào trong cả giấc mơ của Hiền. Bao lần chị giựt mình thảng thốt ngồi bật dậy… ngơ ngác nhìn quanh. Chẳng có gì khác ngoài bóng đêm lạnh giá bao trùm hai dãy xà lim hun hút. Chốc chốc vẳng lại tiếng thạch sùng chặc lưỡi, tiếng chí chóe của mấy chú tí ưa khuấy rối trong xó tối. Và cả tiếng thở dài của ai đó dội qua mấy bức tường xanh rêu im ỉm…
24/09/2011(Xem: 2856)
Ngày xưa có một chàng trai tên là Na Á. Anh mồ côi cha từ sớm, ở với mẹ già. Nhà Na Á nghèo, anh phải làm nghề đánh cá để nuôi thân, nuôi mẹ.
24/09/2011(Xem: 2903)
Một hôm em bé ngồi trong bóng cây trú nắng, gió cũng thổi mát quá, em ngủ quên, đến lúc thức dậy, thì đàn trâu đã đi mất. Em tìm khắp cánh đồng mà chẳng thấy.
21/09/2011(Xem: 2914)
Tờ Chú (có nghĩa là anh đen) nghèo nhất làng. Họ nghèo lắm, nghèo đến nỗi không có một con dao mẻ để phát nương, một cái thuổng để đào củ mài.
21/09/2011(Xem: 2777)
Ngày xưa, ở xã Đại An gần cù lao Huân tỉnh Khánh Hòa có một đôi vợ chồng già không có con cái. Ông bà ở trong một căn nhà lá dựng bên vách núi, làm nghề trồng dưa.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]