Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thiền Sư Giới Không, Đời thứ 15 của Thiền Phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹🌺

07/09/202109:16(Xem: 24696)
Thiền Sư Giới Không, Đời thứ 15 của Thiền Phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹🌺




Thiền Sư Giới Không
Đời thứ 15 của Thiền Phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi 

Thuyết giảng: TT Thích Nguyên Tạng
🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹🌺🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹🌺
Trình pháp: Cư Sĩ Quảng Tịnh Tâm, Cư Sĩ Huệ Hương
Diễn đọc: Cư Sĩ Diệu Danh
Lồng nhạc và online: Cư Sĩ Quảng Phước, Cư Sĩ Quảng Tịnh






Nam Mô A Di Đà Phật

 

Kính bạch Sư Phụ, hôm nay, thứ ba 7/9/2021, chúng con được học về Thiền sư Giới Không thuộc đời thứ 15, Thiền Phái Tỳ-Ni-Đa-Lưu-Chi. Sư phụ dựa theo tài liệu gốc Thiền Sư Việt Nam do HT Thích Thanh Từ biên soạn và ấn hành tại VN vào năm 1972. Pháp thoại hôm nay là bài giảng thứ 282 của Sư Phụ bắt đầu từ mùa cách ly do bệnh đại dịch covid 19 (đầu tháng 5-2020).

 

Sư tục danh là Nguyễn Tuân, con một lương gia trong quận Mãn Đẩu. Thuở nhỏ, Sư đã mến Phật pháp, theo Thiền sư Quảng Phước ở chùa Nguyên Hòa trên núi Chân Ma xuất gia và thọ giới Cụ túc. Theo thầy tu học mấy năm, Sư nhận được ý chỉ.

Sau, Sư đến Lịch Sơn dựng một am nhỏ, chuyên tu Thiền định khoảng năm, sáu năm. Rời am, Sư chống gậy xuống núi, tùy phương hóa đạo. Trên đường ngang qua vùng Nam Sách, Sư lại vào trong hang đá Thánh Chúa cấm túc sáu năm, tu hạnh đầu-đà.

 

Sư phụ giải thích:

-Tiểu sử của Thiền Sư Giới Không ngắn gọn, không được biết tên tuổi, gia quyến cha mẹ. Sư Phụ giải thích lương gia là đạo thờ ông bà, họ tự mặc nhiên xem mình là theo đạo Phật,  dù chưa quy y Tam Bảo, chưa có pháp danh, nhưng khi gia đình có người qua đời, họ cung thỉnh quý thầy đến làm lễ tang theo nghi thức Phật Giáo.

 

-Theo Hoà Thượng Thanh Từ, Sư là đệ tử của Thiền Sư Quảng Phước. Theo sách VN Phật giáo sử luận của Sư ông Nhất Hạnh, đời thứ 14, có 4 vị TS Thiền Khánh Hỷ, Tịnh Nhãn, Tịnh Như và thiền sư Quảng Phước (Phúc), ngài chính là sư phụ của Thiền Sư Giới Không. Sư tu theo hạnh đầu đà, khất thực ăn mỗi ngày một bửa, ngủ dưới gốc cây một đêm.

 

Vua Lý Thần Tông (1128-1138) nhiều lần vời về kinh, Sư từ chối mãi, về sau bất đắc dĩ Sư mới nhận lời. Về đến kinh, Vua sắc Sư ở chùa Gia Lâm để giáo hóa.

 

Về già, Sư trở về quê trụ trì chùa làng Tháp Bát quận Mãn Đẩu. Chính Sư trùng tu lại được chín mươi lăm ngôi chùa.

 

Sư phụ giải thích:

Vua Lý Thần Tông là hậu thân của thiền sư Từ Đạo Hạnh. Kiếp trước, Sư Đạo Hạnh là bạn với ngài Minh Không nhân vì Sư giả làm cọp để hù ngài Minh Không nên kiếp này lên làm vua, năm 21 tuổi, vua phải bị quả báo hoá thành cọp và được ngài Minh Không chửa khỏi. Vua Lý Thần Tông làm vua chỉ được 10 năm (1128-1138) thọ 38 tuổi, con là Lý AnhTông lên nối ngôi.

Đặc biệt trong đời tu của Sư Giới Không, chính Sư có trùng tu chín mươi lăm ngôi chùa, để lại cho đất nước Đại Việt khắp nơi nhiều mái chùa đẹp, những ngôi già lam hùng vĩ .

 

 

Một hôm không bệnh Sư nói kệ dạy chúng:

Ngã hữu nhất sự kỳ đặc,
Phi thanh huỳnh xích bạch hắc.
Thiên hạ tại gia xuất gia,
Thân sanh ố tử vi tặc.
Bất tri sanh tử dị lộ,
Sanh tử chỉ thị thất đắc.
Nhược ngôn sanh tử dị đồ,
Trám khước Thích-ca Di-lặc.
Nhược tri sanh tử, sanh tử,
Phương hội lão tăng xứ nặc.
Nhữ đẳng hậu học môn nhân,
Mạc nhận bàn tinh quĩ tắc.

 

HT Thích Thanh Từ dịch:

Ta có một việc kỳ đặc,
Chẳng xanh vàng đen đỏ trắng.
Cả người tại gia, xuất gia,
Thích sanh, chán tử là giặc.
Chẳng rõ sanh tử khác đường,
Sanh tử chỉ là được mất.
Nếu cho sanh tử khác đường,
Lừa cả Thích-ca, Di-lặc.
Ví biết sanh tử, sanh tử,
Mới hiểu lão tăng chỗ náu,
Môn nhân, hậu học, các người,
Chớ nhận khuôn mẫu pháp tắc.

 

Sư phụ giải thích:

Bài kệ của Sư để lại cho đời sau quá tuyệt vời, nói lên tính tự tại thong dong giữa đôi bờ sống và chết, một thông điệp cho hàng đệ tử về sau:

 

Ta có một việc kỳ đặc,

Chẳng xanh vàng đen đỏ trắng 

Sư Phụ giải thích “một việc kỳ đặc, không xanh vàng đen đỏ trắng” là cho thể tánh tịnh minh, chân tâm thường trú, vì là không có tướng trạng, nên không không có màu sắc. Đây là ngôn ngữ cách điệu của thiền sư.

 

Sư Phụ giải thích ý nghĩa của màu lam áo tràng của người Phật tử là màu khói hương, biểu trưng cho sự hoà hợp và vô thường, cuộc đời mỏng manh nên luôn tu tập giữ thân khẩu ý thanh tịnh không gây đau khổ cho người.

 

Cả người tại gia xuất gia,

Thích sanh, chán tử là giặc

Sư Phụ giải thích, là giặc biểu trưng là thủ phạm tận diệt hết thảy các thiện pháp, đưa chúng sanh vào hầm hố khổ đau và biển khổ sanh tử luân hồi. Ngài cảnh báo sanh là khổ. Đức Thế Tôn thấy chúng sanh trôi lăn trong biển khổ của sanh, lão, bệnh tử, nên ngài khởi ý tưởng đi tìm con đường giúp chúng sanh thoát khổ nạn này.

 Sư phụ có nhắc lại bài sám nguyện thời kinh mỗi tối có câu:

Chí phàm phu tự lực khó thành
Cầu Đại Giác từ bi gia hộ

Dầu phải chịu muôn ngàn gian khổ
Con dốc lòng vì đạo hy sinh

Nương từ quang tìm đến bảo thành
Đặng tự giác giác tha viên mãn.

 

Sư phụ giải thích và nhấn mạnh “con dốc lòng vì đạo mà hy sinh” ở đây không phải là hy sinh cho Đạo Pháp mà  chính hy sinh của chính bản thân mình, hy sinh những thú vui vật chất để giữ tâm vững chải thanh tịnh trên đường Đạo, Đạo ở đây không là Đạo Phật mà chính là chân tâm Phật tánh của chính mình. Phải hy sinh hết những ngũ dục lục trần mới có thể thấy được Đạo là vậy.

 

Chẳng rõ sanh tử khác đường

Sanh tử chỉ là được mất

Sư Phụ giải thích, còn sanh tử là còn nghiệp, tu tập là giúp tiêu trừ nghiệp cũ không tạo nghiệp mới, một khi sạch hết nghiệp cũ mà không có thì không còn tái sanh, đạt  vô sanh bất tử là điểm đến cuối cùng của đường tu.

 

Ví biết sanh tử, sanh tử 

Mới hiểu lão tăng chỗ náo.

Chỗ náo của ngài Giới Không là chỗ thong dong tự tại giữa 2 bờ sanh tử.

 

Môn nhân, hậu học, các người

Chớ nhận khuôn mẫu pháp tắc

 

Sư Phụ kể giai thoại tự tại sống chết của thiền sư Chỉ Y khi đến tham vấn Thiền sư Bổn Tịch ở Tào Sơn. TS Tào Sơn hỏi:

“Thế nào là việc của Chỉ Y?”.

Ngài Chỉ Y đáp: “Chiếc áo vừa khoác vào thân, muôn pháp thảy đều như”. Ý nói việc tu tập thấy tánh như ăn cơm mặc áo, quét chùa…thảy thảy đều ở trong thể tánh như.

 TS Bổn Tịch hỏi tiếp:“Thế nào là dụng của Chỉ Y?” Ngài Chỉ Y liền đến gần “Dạ” một tiếng rồi đứng yên mà thị tịch. (tắt thở, thân lạnh…)  nhưng TS Tào Sơn vẫn chưa chấp nhận nên bảo: “Ngươi chỉ giỏi đi (tử) thế ấy, sao chẳng giỏi đến (sanh) thế ấy?”. Ngài Chỉ Y liền mở mắt ra và hỏi lại TS Bổn Tịch: “Một chân tánh linh khi chẳng nương bào thai thì thế nào?”. TS Tào Sơn bảo: “Chưa phải diệu.” Ngài Chỉ Y hỏi: “Thế nào là diệu?” TS Tào Sơn bảo: “Chẳng mượn! Mượn!”. Ngài Chỉ Y nghe xong liền an nhiên chấp tay mà thị tịch.

 Nói kệ xong, Sư cười một tiếng lớn, rồi chắp tay viên tịch. Môn nhân và đệ tử là Châu mục Lê Kiếm sai các tráng đinh lo việc hỏa táng, thu xá-lợi xây tháp tôn thờ, đồng thời đắp tượng Sư để cúng dường tưởng niệm

 

Cuối bài giảng, Sư Phụ diễn ngâm bài thơ tán thán công hạnh của Thiền Sư Giới Không do Thầy Chúc Hiền sáng tán cúng dường Ngài:

 

 Lúc nhỏ vui ưa Phật đạo thiền

Nguyên Hoà tự viện kết nhân duyên

Xuất gia thọ giới hầu thầy học

Tấn đạo nghiêm thân cận pháp nguyền

Giản dị thanh tu nơi chốn vắng

Bình dân tịnh niệm ở am yên

Đầu đà mật hạnh vua quan kính

Tự tại ung dung nối mạch huyền.

 

 

Kính bạch Sư Phụ, hôm nay chúng con được Sư Phụ ban giảng về Thiền Sư Giới Không, suốt đời Sư chuyên thiền định và tu hạnh đầu đà. Lúc ra đi Sư biểu hiện của sự kỳ đặc như bài kệ của Sư để lại cho đời, một thông điệp cho chúng đệ tử xuất gia và cả tại gia, rằng chân tâm thể tánh không có hình tướng, chẳng xanh vàng đen đỏ trắng, nói kệ xong Sư cuời một tiếng lớn rồi chắp tay viên tịch.

 

 

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

 

Cung kính và tri ơn Sư Phụ,

Đệ tử Quảng Tịnh Tâm

(Montréal, Canada).       


 

282_TT Thich Nguyen Tang_Thien Su Gioi Khong

Thiền Sư Giới Không
Đời thứ 15 của Thiền Phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi
[Vào thời Vua Lý Thần Tông, (1116 – 1138) ]


Kính dâng Thầy bài trình pháp về Thiền Sư Giới Không. Kính đa tạ Thầy đã phối hợp nhiều Phật sự khi chủ lễ cúng cầu siêu mà chỉ rõ điều người học Đạo cần nắm rõ để liễu thoát sinh tử về nơi Cực Lạc mà diễn giải tỏ tường từng câu bài kệ siêu phàm về Sinh Tử của Thiền Sư Giới Không để tìm ra Giặc là ai, đó là thủ phạm đưa chúng sanh vào vào biển khổ , đó là kẻ đã phá hoại các thiện pháp sinh ra và tự đào hầm đào hố đi vào tử huyệt. Kính đảnh lễ và tri ân Thầy với bài pháp thoại tuyệt vời. Kính bạch Thầy, càng ngày dường như sự hiểu biết của con đã khá thay đổi từ khi nghe hơn 282 bài pháp thoại của Thầy rồi ...có một sự dung thông giữa Nguyên thủy và Tổ Sư Thiền một cách kỳ diệu. Kính chúc Thầy pháp thể khinh an, HH

Ngày nay người học  Đạo đã chiêm nghiệm được gì, đã tư duy gì trước bài  kệ trước khi thị tịch của Thiền Sư Giới Không thật siêu phàm, quá tuyệt vời .....

          (Ngã hữu nhất sự kỳ đặc,   

          Phi thanh huỳnh xích bạch hắc. 

          Thiên hạ tại gia xuất gia,    

          Thân sanh ố tử vi tặc.        

          Bất tri sanh tử dị lộ, 

          Sanh tử chỉ thị thất đắc.      

          Nhược ngôn sanh tử dị đồ, 

          Trám khước Thích-ca Di-lặc.

          Nhược tri sanh tử, sanh tử, 

          Phương hội lão tăng xứ nặc.

          Nhữ đẳng hậu học môn nhân,

          Mạc nhận bàn tinh quĩ tắc.)        

Dịch Việt / HT Thích Thanh Từ 

          Ta có một việc kỳ đặc,

          Chẳng xanh vàng đen đỏ trắng.

          Cả người tại gia, xuất gia,

          Thích sanh, chán tử là giặc.

          Chẳng rõ sanh tử khác đường,

          Sanh tử chỉ là được mất.

          Nếu cho sanh tử khác đường,

          Lừa cả Thích-ca, Di-lặc.

          Ví biết sanh tử, sanh tử,

          Mới hiểu lão tăng chỗ náu,

          Môn nhân, hậu học, các người,

          Chớ nhận khuôn mẫu pháp tắc.

Vì xưa nay hầu hết phàm nhân trên thế gian mỗi khi nhắc đến cái chết , không ai thích bàn luận tới  mỗi khi bước  qua cái tuổi thất thập cổ lai hy và khi được đề cập  đến ....nhưng đối với thiền sư Giới Không  thì  khác hẳn ....

Trước  khi mất, Ngài  gọi đệ tử đến dạy hai lẽ "sống" và "chết" không khác nhau nên đừng có sợ hãi: "Nếu cho sanh và tử khác đường thì lừa cả Thích Ca, Di Lặc", nói xong cười to một tiếng vang động thiền đường, rồi chắp tay qua đời..

Phải chăng điều Ngài muốn nhắn gửi là phải thấy được Ông Phật của chính mình ( Chân Tâm ) trước khi liễu ngộ được sinh tử 

Và Đạo hiệu Giới Không của Ngài đã biểu hiện tất cả!!! 

GIỚI được nhắc tới như một phần trong ba nhóm của Bát chính đạo, một trong Tam học cũng là một của các hạnh Ba-la-mật-đa.

KHÔNG ( một trong những tư tưởng căn bản, cốt lõi của giáo lý đạo Phật, từ Nguyên thủy, Bộ phái đến Đại thừa.) 

Chính nhờ hành trì quyết liệt sau khi nhận ra được yếu chỉ rằng giáo lý Không của đạo Phật thật thâm thúy , nhờ đó Ngài chỉ rõ cái Thể Tánh Tịnh Minh vi diệu biết dường nào, chẳng những nó đáp ứng cho nhu cầu giải thích sự hình thành và biến thiên của vạn pháp, mà còn giúp cho những người chưa giác ngộ, những người đang vướng kẹt vào tự ngã tháo gỡ được mọi gút mắc, tìm cho mình lối đi thanh thản, hạnh phúc chân thật giữa cuộc đời, và đừng sợ hãi khi nghe chuyện sống chết !!!



Kính ngưỡng danh Tăng công hạnh tuyệt vời như Đạo Hiệu ! 

Giới Không Thiền Sư ....bài kệ sinh tử siêu phàm (1) 

Năm năm am tranh thiền định, Đầu Đà hạnh sáu năm (2) 

 Công phu hành trì .... sự quyết liệt, chuẩn bị rất kỹ 

"Để biến  nhập trần lao, tác Phật sự ! "

Trụ trì Gia Lâm , Tháp Bát cùng trùng tu 95 thiền tự (3)

Nghĩa cao siêu thâm thuý "lý Không"  xiển dương 

Tuy khuyết lục... nay Minh Sư Quảng Phước đã tỏ tường (4) 

Kính đa tạ Giảng Sư ...  Thiền sư Chỉ Y khơi nhắc lại 

Thong dong giữa đôi bờ Sanh tử .......tự tại! 

Cách xa gần ba trăm năm, 

........triệt  ngộ pháp cũng đồng nhau  (5) 

Tìm được chân tâm không hình tướng sắc màu(6) 

Nhân dịp này ....

màu áo lam cư sĩ " Vô thường, đồng sự , hoà hợp "

Kính tri ân Giảng Sư, 

.....lời khai thị cúng cầu siêu ...nghĩa cao tột 

Sau dâng cơm,  nhị trà châm ....đáng nhớ ghi (7) 

Âm siêu, dương thới.. tự mình  giác ngộ khó bì 

Tìm được Ông Phật Tâm sẽ liễu tri sanh tử !



Nam Mô Thiền Sư Giới Không tác đại chứng minh .

Huệ Hương 

Melbourne 7/9/2021 



Chú thích 

(1) Một hôm không bệnh Sư nói kệ dạy chúng:

          Ta có một việc kỳ đặc,

          Chẳng xanh vàng đen đỏ trắng.

          Cả người tại gia, xuất gia,

          Thích sanh, chán tử là giặc.

          Chẳng rõ sanh tử khác đường,

          Sanh tử chỉ là được mất.

          Nếu cho sanh tử khác đường,

          Lừa cả Thích-ca, Di-lặc.

          Ví biết sanh tử, sanh tử,

          Mới hiểu lão tăng chỗ náu,

          Môn nhân, hậu học, các người,

          Chớ nhận khuôn mẫu pháp tắc.

          (Ngã hữu nhất sự kỳ đặc,   

          Phi thanh huỳnh xích bạch hắc. 

          Thiên hạ tại gia xuất gia,    

          Thân sanh ố tử vi tặc.        

          Bất tri sanh tử dị lộ, 

          Sanh tử chỉ thị thất đắc.      

          Nhược ngôn sanh tử dị đồ, 

          Trám khước Thích-ca Di-lặc.

          Nhược tri sanh tử, sanh tử, 

          Phương hội lão tăng xứ nặc.

          Nhữ đẳng hậu học môn nhân,

          Mạc nhận bàn tinh quĩ tắc.)   
       

Nói kệ xong, Sư cười một tiếng lớn, rồi chấp tay viên tịch. 

Môn nhân và đệ tử là Châu mục Lê Kiếm sai các tráng đinh lo việc hỏa táng, thu xá-lợi xây tháp thờ, đồng thời đắp tượng Sư để cúng dường.tưởng niệm 

(2)

Theo Thầy tu học mấy năm, Sư nhận được ý chỉ.

Sau, Sư đến Lịch Sơn dựng một am nhỏ, chuyên tu thiền định khoảng năm, sáu năm. Rời am, Sư chống gậy xuống núi, tùy phương hóa đạo. Trên đường ngang qua vùng Nam Sách, Sư lại vào trong hang đá Thánh Chúa cấm túc sáu năm, tu hạnh đầu-đà.

 13 điều cần phải thực thi khi giữ hạnh Đầu Đà 

1. Y phục làm bằng những mảnh vải rách.

2. Chỉ dùng ba y.

3. Khất thực mà ăn.

4. Chỉ ăn một bữa vào giờ trưa.

5. Không ăn quá no.

6. Không giữ tiền bạc.

7. Sống độc cư.

8. Sống trong nghĩa địa.

9. Sống dưới gốc cây.

10. Sống ngoài trời.

11. Không ở cố định, thường du hành.

12. Ngồi ngủ, không nằm ngủ.

13. Chỉ dùng bình bát. 

(3) Vua Lý Thần Tông (1128-1138) nhiều lần vời về kinh, Sư từ chối mãi, sau bất đắc dĩ mới nhận lời. Về đến kinh, vua sắc Sư ở chùa Gia Lâm để giáo hóa.

Về già, Sư trở về quê trụ trì chùa làng Tháp Bát quận Mãn Đẩu. Chính Sư trùng tu lại được chín mươi lăm ngôi chùa.

(4) Trong Việt Nam Phật Giáo Sử Luận của HT Thích Nhất Hạnh đã dựa vào hành trạng của đệ tử (Thiền Sư Giới Không ) mới biết được lý lịch (Thiền Sư Quảng Phước ) bị khuyết lục 

Thế hệ thứ mười ba: Huệ Sinh (mất năm 1063), Thiền Nham (mất năm 1163), Minh Không (mất năm 1141), Bản Tịch (mất năm 1140) và hai người khuyết lục (có thể là Pháp Thông bạn đồng môn của Huệ Sinh và Biện Tài, giáo sư của Khánh Hỷ).

Thế hệ thứ mười bốn: Khánh Hỷ (mất năm 1142) và bốn vị khuyết lục trong đó có thể là Tính Nhãn và Tính Như, hai người bạn đồng môn, và Quảng Phúc, thầy của Giới Không.

Thế hệ thứ mười lăm: Giới Không (mất năm?), Pháp Dung (mất năm 1174) và một người khuyết lục, có lẽ là Thảo Nhất chùa Tĩnh Lự, thầy của Chân Không.

(5) Câu chuyện Thiền Sư Chỉ Y tự tại khi viên tịch còn ghi trong Ngữ Lục của Ngài Bổn Tịch Động Sơn (840-901) Tổ thứ hai của phái Tào Động 

 Thiền giả Chỉ Y đến tham vấn. Sư hỏi:

– Chỉ Y đó chăng?

– Dạ, không dám! _ Chỉ Y đáp.

Sư hỏi: Thế nào là việc của Chỉ Y?

Chỉ Y đáp: Áo lông cừu vừa mặc, vạn pháp thảy đều như!

Sư hỏi: Thế nào là dụng của Chỉ Y?

Chỉ Y đến gần cất tiếng dạ rồi thoát hóa.

Sư liền nói: Ngươi chỉ biết đi như thế, sao chẳng biết đến như thế?

Chỉ Y bỗng nhiên mở mắt hỏi: Chơn tánh minh linh, khi chẳng gá bào thai, thì thế nào?

Sư đáp: Chưa phải là diệu!

Chỉ Y hỏi: Thế nào mới là diệu?

Sư đáp: Chẳng gá mà gá!

Chỉ Y tạm biệt rồi thị tịch.

Sư làm bài tụng:

Giác tánh viên minh không tướng thân

Chớ đem tri kiến luận xa gần

Niệm khác, khiến cho Huyền thể ngại

Tâm sai, chẳng hợp đạo tương lân

Tình phân, vạn pháp chìm tiền cảnh

Thức chia, trăm mối mất bản chân

Trong câu, như thế toàn liễu ngộ

Rõ ràng vô sự, Tích thời nhân! (Người  bản lai)

(6) 

Trong câu thứ hai của bài kệ thị tịch           

Ta có một việc kỳ đặc,

Chẳng xanh vàng đen đỏ trắng.

Màu vàng là màu của trí tuệ 

Màu xanh màu của hy vọng 

Màu trắng màu của sự thanh tịnh 

Màu đen là màu của u ám , tang tóc 

Màu đỏ lòng từ bi,

 Màu lam chỉ sự vô thường , màu của khói hương 

(7) 

Bài   kệ trong các buổi lễ cầu siêu người quá vãng được các Thầy xướng khai thị sau khi dâng cơm và cúng trà lần thứ hai 

***............

Thấy Phật ngộ pháp tánh 

Kiến Phật liễu sinh tử 

Như Phật độ nhất thiết 

Vô biên phiền não đoạn 

Vô lượng pháp môn tu 

Thệ nguyện độ chúng sanh 

Đều trọn thành Phật Đạo ..

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/05/2015(Xem: 5888)
Ngày còn đi làm, cứ mỗi lần đến ngày 13 thứ sáu, các bạn đồng nghiệp trong sở tôi kiêng cử dữ lắm, ai cũng cho đó là ngày xấu nhất trong năm. Tôi thì không tin, chỉ cười, cũng không phản đối lòng tin của bạn bè nhưng bây giờ tôi cũng đâm ra sợ ngày này vô cùng: 13 Thứ sáu - ngày Anh tôi ra đi thật quá bất ngờ và quá đau đớn!
02/05/2015(Xem: 3944)
Khi tôi gặp Thầy lần đầu tiên, tôi thật sự là một kẻ phàm phu tục tử có đầy đủ tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến, đã chẳng tu mà chỉ biết hú là giỏi. Mặc dù tôi được sinh ra từ một gia đình có tiếng là theo đạo Phật lâu đời, nhưng từ khi có sự hiểu biết, tôi thấy bà và mẹ chỉ đi chùa mỗi năm vài lần vào dịp lễ lớn, cũng lạy Phật, thắp hương, khấn vái sì sụp gì đó rồi… hết. Còn tôi thì sao, tôi bị sinh ra vào những năm sau cuộc chiến, tưởng là hòa bình lập lại thì dân giàu nước mạnh, tôn giáo được tự do phát triển không ngờ mọi việc hoàn toàn ngược lại, ăn còn không đủ no nói gì đến việc đi chùa nghe Pháp, đọc kinh. Tóm lại tôi hoàn toàn mù tịt về Phật Pháp.
02/05/2015(Xem: 4811)
Tôi gặp nàng tại Đại nhạc hội Việt Nam tổ chức tại Düsseldorf vào một mùa Giáng Sinh xa xưa nhưng không bao giờ quên được dù nàng lúc đó lẫn lộn giữa rừng người đông đảo. Nàng không xinh đẹp tuyệt trần, không ăn mặt lòe loẹt nổi bật, cũng không hoạt bát ồn ào gây sự chú ý của mọi người. Nhưng đối với tôi thì nàng thật đặc biệt với dáng vẻ đoan trang thùy mỵ, với đôi mắt dịu dàng và với sự im lặng của nàng trong một góc vắng của hội trường. Nàng đứng đó, tay cầm một cuốn sách nhỏ, vừa đọc vừa... gặm bánh mì, thỉnh thoảng lại ngước mắt lên nhìn xung quanh coi có gì “lạ” không rồi lại cắm đầu vào cuốn sách, cứ y như trong đó có chỉ chỗ giấu kho vàng vậy!
01/05/2015(Xem: 15657)
Được làm con Phật là điều vừa đơn giản, vừa hy hữu. Đơn giản, vì sinh ra trong một gia đình Phật giáo thì tự động theo cha mẹ đi chùa, lễ Phật, tin Phật ngay từ bé. Hy hữu, vì biết lấy Phật giáo làm lý tưởng đời mình và chọn sự thực hành Phật Pháp như là sinh hoạt nền tảng hàng ngày—không phải ai sinh ra trong gia đình đó cũng đều tin Phật từ nhỏ đến lớn, và nếu tin Phật, cũng không gì bảo đảm là hiểu Phật, thực hành đúng đắn con đường của Phật để gọi là con Phật chân chính.
23/04/2015(Xem: 3246)
Năm nay 2015 tôi có đến ba mùa Xuân. Đó là mùa Xuân của nước Đức, mùa Xuân của nước Nhật và mùa Xuân của Hoa Kỳ. Thông thường mùa Xuân bắt đầu vào cuối tháng 3 dương lịch và kéo dài ba tháng như vậy, để thuận với lẽ tuần hoàn của vạn hữu là Xuân, Hạ, Thu, Đông; nhưng cũng có nhiều nơi mỗi năm chỉ có hai mùa như quê tôi Việt Nam, là mùa mưa và mùa nắng. Trong khi đó Âu Châu, nhất là vùng Bắc Âu, mỗi năm cũng chỉ có hai mùa. Đó là mùa lạnh kéo dài nhiều khi đến 6 hay 7 tháng và mùa ấm chỉ có chừng 3 đến 4 tháng là cùng. Dĩ nhiên là sẽ không có mùa Hè và trời vào Thu lại nhanh lắm, để đón tiếp một mùa Đông băng giá lạnh lùng.
15/04/2015(Xem: 11534)
Một sớm mai nọ, tôi không nhớ ngày ta, ngày tây, chỉ nhớ đầu năm 1984. Buổi sáng hôm ấy đầy dáng Xuân cả đất trời Nam Hà, khi tôi và hằng trăm tù nhân chính trị trên đường đến hiện trường lao động ở dải đất dài, mà hai bên toàn là núi đá vôi cao, thấp trùng trùng, điệp điệp. Người địa phương Ba Sao gọi là THUNG.
31/03/2015(Xem: 18855)
Dianne Perry, (sau này được biết đến qua pháp danh Tây Tạng của cô là Tenzin Palmo) là một vị ni cô người Anh đầu tiên, đã ẩn cư thiền định suốt 12 năm trong một hang động cao 12.300 bộ trên dãy Hy Mã Lạp Sơn, cách ngăn khỏi thế giới trần tục bởi những rặng núi phủ đầy tuyết trắng quanh năm. Tenzin Palmo đã sống một mình và tu tập trong động tuyết này. Cô đã chạm trán với những thú rừng hoang dã, đã vượt qua những cơn lạnh khủng khiếp, những cái đói giết người, và những trận bão tuyết kinh hồn; cô tự trồng lấy thực phẩm và ngủ ngồi trong cái hộp gỗ rộng cỡ 3 bộ vuông (theo truyền thống Tây Tạng, các vị tu sĩ đều tọa thiền trong một cái hộp gỗ như vậy). Cô không bao giò ngủ nằm. Mục đích của Tenzin Palmo là chứng đạo trong hình tướng một người nữ.
18/03/2015(Xem: 6408)
Tôi sinh ra ở miền sông nước Nam Bộ của xứ Việt. Nhưng thật lạ, phải gần nửa đời tôi mới bắt đầu nhận ra mình vốn yêu sông nước. Tôi yêu quê từ những miền đất lạ mà mình đi qua, và tệ nhất khi đôi lúc chỉ là những nơi chốn xa ngái mịt mù chỉ nhìn thấy trong sách vở, phim ảnh. Và kỳ chưa, đó cũng là cách tôi yêu đạo Phật. Ăn cơm chùa từ bé, nhưng phải đợi đến những giây khắc nghiệt ngã, khốc liệt nhất bình sinh, tôi mới nhìn thấy được rõ ràng nụ cười vô lượng của đức Phật bất chợt hiện lên đâu đó cuối trời thống lụy.
05/03/2015(Xem: 3324)
Có những kỷ niệm tưởng rằng sẽ mờ nhạt theo tháng ngày tất tả, trôi xuôi đến tận cùng triền dốc của cơm áo xứ người. Nhưng không, mỗi khi trời đất đổi mùa thì lòng người lại bâng khuâng, ký ức lại hiện về rõ nét, dù đó là một khoảng thời gian đã qua, một ký ức đã xa... Chỉ còn lại trong tim nhưng cũng đủ xót xa lòng khi nhớ đến! Hình ảnh bà cụ già nua ốm yếu, ngồi cô đơn trong căn chòi tranh rách nát, vào một buổi chiều âm u buồn thảm vẫn còn đậm nét trong lòng tôi, nhớ đến là bồi hồi xao xuyến cả tâm can. Buổi chiều ở Đồng tháp Mười buồn quá sức, buồn đến não nuột xót xa, một chòi tranh nằm chơ vơ bên con lạch nước đục ngầu, không người qua lại, xung quanh chỉ có tiếng ếch nhái than van!
07/02/2015(Xem: 4793)
Một trong tôn giáo cổ xưa Có thầy tu nọ rất ưa tế thần Tuy ông nổi tiếng xa gần Nhưng mà mê muội tâm thần nhiều thay. Một hôm ông chọn dê này Cho rằng thích hợp, giết ngay tế thần Nghĩ suy lầm lạc vô ngần:
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]