Thiền Sư Giới Không
Đời thứ 15 của Thiền Phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi
Thuyết giảng: TT Thích Nguyên Tạng
🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹🌺🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹🌺
Trình pháp: Cư Sĩ Quảng Tịnh Tâm, Cư Sĩ Huệ Hương
Diễn đọc: Cư Sĩ Diệu Danh
Lồng nhạc và online: Cư Sĩ Quảng Phước, Cư Sĩ Quảng Tịnh
Nam Mô A Di Đà Phật
Kính bạch Sư Phụ, hôm nay, thứ ba 7/9/2021, chúng con được học về Thiền sư Giới Không thuộc đời thứ 15, Thiền Phái Tỳ-Ni-Đa-Lưu-Chi. Sư phụ dựa theo tài liệu gốc Thiền Sư Việt Nam do HT Thích Thanh Từ biên soạn và ấn hành tại VN vào năm 1972. Pháp thoại hôm nay là bài giảng thứ 282 của Sư Phụ bắt đầu từ mùa cách ly do bệnh đại dịch covid 19 (đầu tháng 5-2020).
Sư tục danh là Nguyễn Tuân, con một lương gia trong quận Mãn Đẩu. Thuở nhỏ, Sư đã mến Phật pháp, theo Thiền sư Quảng Phước ở chùa Nguyên Hòa trên núi Chân Ma xuất gia và thọ giới Cụ túc. Theo thầy tu học mấy năm, Sư nhận được ý chỉ.
Sau, Sư đến Lịch Sơn dựng một am nhỏ, chuyên tu Thiền định khoảng năm, sáu năm. Rời am, Sư chống gậy xuống núi, tùy phương hóa đạo. Trên đường ngang qua vùng Nam Sách, Sư lại vào trong hang đá Thánh Chúa cấm túc sáu năm, tu hạnh đầu-đà.
Sư phụ giải thích:
-Tiểu sử của Thiền Sư Giới Không ngắn gọn, không được biết tên tuổi, gia quyến cha mẹ. Sư Phụ giải thích lương gia là đạo thờ ông bà, họ tự mặc nhiên xem mình là theo đạo Phật, dù chưa quy y Tam Bảo, chưa có pháp danh, nhưng khi gia đình có người qua đời, họ cung thỉnh quý thầy đến làm lễ tang theo nghi thức Phật Giáo.
-Theo Hoà Thượng Thanh Từ, Sư là đệ tử của Thiền Sư Quảng Phước. Theo sách VN Phật giáo sử luận của Sư ông Nhất Hạnh, đời thứ 14, có 4 vị TS Thiền Khánh Hỷ, Tịnh Nhãn, Tịnh Như và thiền sư Quảng Phước (Phúc), ngài chính là sư phụ của Thiền Sư Giới Không. Sư tu theo hạnh đầu đà, khất thực ăn mỗi ngày một bửa, ngủ dưới gốc cây một đêm.
Vua Lý Thần Tông (1128-1138) nhiều lần vời về kinh, Sư từ chối mãi, về sau bất đắc dĩ Sư mới nhận lời. Về đến kinh, Vua sắc Sư ở chùa Gia Lâm để giáo hóa.
Về già, Sư trở về quê trụ trì chùa làng Tháp Bát quận Mãn Đẩu. Chính Sư trùng tu lại được chín mươi lăm ngôi chùa.
Sư phụ giải thích:
Vua Lý Thần Tông là hậu thân của thiền sư Từ Đạo Hạnh. Kiếp trước, Sư Đạo Hạnh là bạn với ngài Minh Không nhân vì Sư giả làm cọp để hù ngài Minh Không nên kiếp này lên làm vua, năm 21 tuổi, vua phải bị quả báo hoá thành cọp và được ngài Minh Không chửa khỏi. Vua Lý Thần Tông làm vua chỉ được 10 năm (1128-1138) thọ 38 tuổi, con là Lý AnhTông lên nối ngôi.
Đặc biệt trong đời tu của Sư Giới Không, chính Sư có trùng tu chín mươi lăm ngôi chùa, để lại cho đất nước Đại Việt khắp nơi nhiều mái chùa đẹp, những ngôi già lam hùng vĩ .
Một hôm không bệnh Sư nói kệ dạy chúng:
Ngã hữu nhất sự kỳ đặc,
Phi thanh huỳnh xích bạch hắc.
Thiên hạ tại gia xuất gia,
Thân sanh ố tử vi tặc.
Bất tri sanh tử dị lộ,
Sanh tử chỉ thị thất đắc.
Nhược ngôn sanh tử dị đồ,
Trám khước Thích-ca Di-lặc.
Nhược tri sanh tử, sanh tử,
Phương hội lão tăng xứ nặc.
Nhữ đẳng hậu học môn nhân,
Mạc nhận bàn tinh quĩ tắc.
HT Thích Thanh Từ dịch:
Ta có một việc kỳ đặc,
Chẳng xanh vàng đen đỏ trắng.
Cả người tại gia, xuất gia,
Thích sanh, chán tử là giặc.
Chẳng rõ sanh tử khác đường,
Sanh tử chỉ là được mất.
Nếu cho sanh tử khác đường,
Lừa cả Thích-ca, Di-lặc.
Ví biết sanh tử, sanh tử,
Mới hiểu lão tăng chỗ náu,
Môn nhân, hậu học, các người,
Chớ nhận khuôn mẫu pháp tắc.
Sư phụ giải thích:
Bài kệ của Sư để lại cho đời sau quá tuyệt vời, nói lên tính tự tại thong dong giữa đôi bờ sống và chết, một thông điệp cho hàng đệ tử về sau:
Ta có một việc kỳ đặc,
Chẳng xanh vàng đen đỏ trắng
Sư Phụ giải thích “một việc kỳ đặc, không xanh vàng đen đỏ trắng” là cho thể tánh tịnh minh, chân tâm thường trú, vì là không có tướng trạng, nên không không có màu sắc. Đây là ngôn ngữ cách điệu của thiền sư.
Sư Phụ giải thích ý nghĩa của màu lam áo tràng của người Phật tử là màu khói hương, biểu trưng cho sự hoà hợp và vô thường, cuộc đời mỏng manh nên luôn tu tập giữ thân khẩu ý thanh tịnh không gây đau khổ cho người.
Cả người tại gia xuất gia,
Thích sanh, chán tử là giặc
Sư Phụ giải thích, là giặc biểu trưng là thủ phạm tận diệt hết thảy các thiện pháp, đưa chúng sanh vào hầm hố khổ đau và biển khổ sanh tử luân hồi. Ngài cảnh báo sanh là khổ. Đức Thế Tôn thấy chúng sanh trôi lăn trong biển khổ của sanh, lão, bệnh tử, nên ngài khởi ý tưởng đi tìm con đường giúp chúng sanh thoát khổ nạn này.
Sư phụ có nhắc lại bài sám nguyện thời kinh mỗi tối có câu:
Chí phàm phu tự lực khó thành
Cầu Đại Giác từ bi gia hộ
Dầu phải chịu muôn ngàn gian khổ
Con dốc lòng vì đạo hy sinh
Nương từ quang tìm đến bảo thành
Đặng tự giác giác tha viên mãn.
Sư phụ giải thích và nhấn mạnh “con dốc lòng vì đạo mà hy sinh” ở đây không phải là hy sinh cho Đạo Pháp mà chính hy sinh của chính bản thân mình, hy sinh những thú vui vật chất để giữ tâm vững chải thanh tịnh trên đường Đạo, Đạo ở đây không là Đạo Phật mà chính là chân tâm Phật tánh của chính mình. Phải hy sinh hết những ngũ dục lục trần mới có thể thấy được Đạo là vậy.
Chẳng rõ sanh tử khác đường
Sanh tử chỉ là được mất
Sư Phụ giải thích, còn sanh tử là còn nghiệp, tu tập là giúp tiêu trừ nghiệp cũ không tạo nghiệp mới, một khi sạch hết nghiệp cũ mà không có thì không còn tái sanh, đạt vô sanh bất tử là điểm đến cuối cùng của đường tu.
Ví biết sanh tử, sanh tử
Mới hiểu lão tăng chỗ náo.
Chỗ náo của ngài Giới Không là chỗ thong dong tự tại giữa 2 bờ sanh tử.
Môn nhân, hậu học, các người
Chớ nhận khuôn mẫu pháp tắc
Sư Phụ kể giai thoại tự tại sống chết của thiền sư Chỉ Y khi đến tham vấn Thiền sư Bổn Tịch ở Tào Sơn. TS Tào Sơn hỏi:
“Thế nào là việc của Chỉ Y?”.
Ngài Chỉ Y đáp: “Chiếc áo vừa khoác vào thân, muôn pháp thảy đều như”. Ý nói việc tu tập thấy tánh như ăn cơm mặc áo, quét chùa…thảy thảy đều ở trong thể tánh như.
TS Bổn Tịch hỏi tiếp:“Thế nào là dụng của Chỉ Y?” Ngài Chỉ Y liền đến gần “Dạ” một tiếng rồi đứng yên mà thị tịch. (tắt thở, thân lạnh…) nhưng TS Tào Sơn vẫn chưa chấp nhận nên bảo: “Ngươi chỉ giỏi đi (tử) thế ấy, sao chẳng giỏi đến (sanh) thế ấy?”. Ngài Chỉ Y liền mở mắt ra và hỏi lại TS Bổn Tịch: “Một chân tánh linh khi chẳng nương bào thai thì thế nào?”. TS Tào Sơn bảo: “Chưa phải diệu.” Ngài Chỉ Y hỏi: “Thế nào là diệu?” TS Tào Sơn bảo: “Chẳng mượn! Mượn!”. Ngài Chỉ Y nghe xong liền an nhiên chấp tay mà thị tịch.
Nói kệ xong, Sư cười một tiếng lớn, rồi chắp tay viên tịch. Môn nhân và đệ tử là Châu mục Lê Kiếm sai các tráng đinh lo việc hỏa táng, thu xá-lợi xây tháp tôn thờ, đồng thời đắp tượng Sư để cúng dường tưởng niệm
Cuối bài giảng, Sư Phụ diễn ngâm bài thơ tán thán công hạnh của Thiền Sư Giới Không do Thầy Chúc Hiền sáng tán cúng dường Ngài:
Lúc nhỏ vui ưa Phật đạo thiền
Nguyên Hoà tự viện kết nhân duyên
Xuất gia thọ giới hầu thầy học
Tấn đạo nghiêm thân cận pháp nguyền
Giản dị thanh tu nơi chốn vắng
Bình dân tịnh niệm ở am yên
Đầu đà mật hạnh vua quan kính
Tự tại ung dung nối mạch huyền.
Kính bạch Sư Phụ, hôm nay chúng con được Sư Phụ ban giảng về Thiền Sư Giới Không, suốt đời Sư chuyên thiền định và tu hạnh đầu đà. Lúc ra đi Sư biểu hiện của sự kỳ đặc như bài kệ của Sư để lại cho đời, một thông điệp cho chúng đệ tử xuất gia và cả tại gia, rằng chân tâm thể tánh không có hình tướng, chẳng xanh vàng đen đỏ trắng, nói kệ xong Sư cuời một tiếng lớn rồi chắp tay viên tịch.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Cung kính và tri ơn Sư Phụ,
Đệ tử Quảng Tịnh Tâm
(Montréal, Canada).
Thiền Sư Giới Không
Đời thứ 15 của Thiền Phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi
[Vào thời Vua Lý Thần Tông, (1116 – 1138) ]
Kính dâng Thầy bài trình pháp về Thiền Sư Giới Không. Kính đa tạ Thầy đã phối hợp nhiều Phật sự khi chủ lễ cúng cầu siêu mà chỉ rõ điều người học Đạo cần nắm rõ để liễu thoát sinh tử về nơi Cực Lạc mà diễn giải tỏ tường từng câu bài kệ siêu phàm về Sinh Tử của Thiền Sư Giới Không để tìm ra Giặc là ai, đó là thủ phạm đưa chúng sanh vào vào biển khổ , đó là kẻ đã phá hoại các thiện pháp sinh ra và tự đào hầm đào hố đi vào tử huyệt. Kính đảnh lễ và tri ân Thầy với bài pháp thoại tuyệt vời. Kính bạch Thầy, càng ngày dường như sự hiểu biết của con đã khá thay đổi từ khi nghe hơn 282 bài pháp thoại của Thầy rồi ...có một sự dung thông giữa Nguyên thủy và Tổ Sư Thiền một cách kỳ diệu. Kính chúc Thầy pháp thể khinh an, HH
Ngày nay người học Đạo đã chiêm nghiệm được gì, đã tư duy gì trước bài kệ trước khi thị tịch của Thiền Sư Giới Không thật siêu phàm, quá tuyệt vời .....
(Ngã hữu nhất sự kỳ đặc,
Phi thanh huỳnh xích bạch hắc.
Thiên hạ tại gia xuất gia,
Thân sanh ố tử vi tặc.
Bất tri sanh tử dị lộ,
Sanh tử chỉ thị thất đắc.
Nhược ngôn sanh tử dị đồ,
Trám khước Thích-ca Di-lặc.
Nhược tri sanh tử, sanh tử,
Phương hội lão tăng xứ nặc.
Nhữ đẳng hậu học môn nhân,
Mạc nhận bàn tinh quĩ tắc.)
Dịch Việt / HT Thích Thanh Từ
Ta có một việc kỳ đặc,
Chẳng xanh vàng đen đỏ trắng.
Cả người tại gia, xuất gia,
Thích sanh, chán tử là giặc.
Chẳng rõ sanh tử khác đường,
Sanh tử chỉ là được mất.
Nếu cho sanh tử khác đường,
Lừa cả Thích-ca, Di-lặc.
Ví biết sanh tử, sanh tử,
Mới hiểu lão tăng chỗ náu,
Môn nhân, hậu học, các người,
Chớ nhận khuôn mẫu pháp tắc.
Vì xưa nay hầu hết phàm nhân trên thế gian mỗi khi nhắc đến cái chết , không ai thích bàn luận tới mỗi khi bước qua cái tuổi thất thập cổ lai hy và khi được đề cập đến ....nhưng đối với thiền sư Giới Không thì khác hẳn ....
Trước khi mất, Ngài gọi đệ tử đến dạy hai lẽ "sống" và "chết" không khác nhau nên đừng có sợ hãi: "Nếu cho sanh và tử khác đường thì lừa cả Thích Ca, Di Lặc", nói xong cười to một tiếng vang động thiền đường, rồi chắp tay qua đời..
Phải chăng điều Ngài muốn nhắn gửi là phải thấy được Ông Phật của chính mình ( Chân Tâm ) trước khi liễu ngộ được sinh tử
Và Đạo hiệu Giới Không của Ngài đã biểu hiện tất cả!!!
GIỚI được nhắc tới như một phần trong ba nhóm của Bát chính đạo, một trong Tam học cũng là một của các hạnh Ba-la-mật-đa.
KHÔNG ( một trong những tư tưởng căn bản, cốt lõi của giáo lý đạo Phật, từ Nguyên thủy, Bộ phái đến Đại thừa.)
Chính nhờ hành trì quyết liệt sau khi nhận ra được yếu chỉ rằng giáo lý Không của đạo Phật thật thâm thúy , nhờ đó Ngài chỉ rõ cái Thể Tánh Tịnh Minh vi diệu biết dường nào, chẳng những nó đáp ứng cho nhu cầu giải thích sự hình thành và biến thiên của vạn pháp, mà còn giúp cho những người chưa giác ngộ, những người đang vướng kẹt vào tự ngã tháo gỡ được mọi gút mắc, tìm cho mình lối đi thanh thản, hạnh phúc chân thật giữa cuộc đời, và đừng sợ hãi khi nghe chuyện sống chết !!!
Kính ngưỡng danh Tăng công hạnh tuyệt vời như Đạo Hiệu !
Giới Không Thiền Sư ....bài kệ sinh tử siêu phàm (1)
Năm năm am tranh thiền định, Đầu Đà hạnh sáu năm (2)
Công phu hành trì .... sự quyết liệt, chuẩn bị rất kỹ
"Để biến nhập trần lao, tác Phật sự ! "
Trụ trì Gia Lâm , Tháp Bát cùng trùng tu 95 thiền tự (3)
Nghĩa cao siêu thâm thuý "lý Không" xiển dương
Tuy khuyết lục... nay Minh Sư Quảng Phước đã tỏ tường (4)
Kính đa tạ Giảng Sư ... Thiền sư Chỉ Y khơi nhắc lại
Thong dong giữa đôi bờ Sanh tử .......tự tại!
Cách xa gần ba trăm năm,
........triệt ngộ pháp cũng đồng nhau (5)
Tìm được chân tâm không hình tướng sắc màu(6)
Nhân dịp này ....
màu áo lam cư sĩ " Vô thường, đồng sự , hoà hợp "
Kính tri ân Giảng Sư,
.....lời khai thị cúng cầu siêu ...nghĩa cao tột
Sau dâng cơm, nhị trà châm ....đáng nhớ ghi (7)
Âm siêu, dương thới.. tự mình giác ngộ khó bì
Tìm được Ông Phật Tâm sẽ liễu tri sanh tử !
Nam Mô Thiền Sư Giới Không tác đại chứng minh .
Huệ Hương
Melbourne 7/9/2021
Chú thích
(1) Một hôm không bệnh Sư nói kệ dạy chúng:
Ta có một việc kỳ đặc,
Chẳng xanh vàng đen đỏ trắng.
Cả người tại gia, xuất gia,
Thích sanh, chán tử là giặc.
Chẳng rõ sanh tử khác đường,
Sanh tử chỉ là được mất.
Nếu cho sanh tử khác đường,
Lừa cả Thích-ca, Di-lặc.
Ví biết sanh tử, sanh tử,
Mới hiểu lão tăng chỗ náu,
Môn nhân, hậu học, các người,
Chớ nhận khuôn mẫu pháp tắc.
(Ngã hữu nhất sự kỳ đặc,
Phi thanh huỳnh xích bạch hắc.
Thiên hạ tại gia xuất gia,
Thân sanh ố tử vi tặc.
Bất tri sanh tử dị lộ,
Sanh tử chỉ thị thất đắc.
Nhược ngôn sanh tử dị đồ,
Trám khước Thích-ca Di-lặc.
Nhược tri sanh tử, sanh tử,
Phương hội lão tăng xứ nặc.
Nhữ đẳng hậu học môn nhân,
Mạc nhận bàn tinh quĩ tắc.)
Nói kệ xong, Sư cười một tiếng lớn, rồi chấp tay viên tịch.
Môn nhân và đệ tử là Châu mục Lê Kiếm sai các tráng đinh lo việc hỏa táng, thu xá-lợi xây tháp thờ, đồng thời đắp tượng Sư để cúng dường.tưởng niệm
(2)
Theo Thầy tu học mấy năm, Sư nhận được ý chỉ.
Sau, Sư đến Lịch Sơn dựng một am nhỏ, chuyên tu thiền định khoảng năm, sáu năm. Rời am, Sư chống gậy xuống núi, tùy phương hóa đạo. Trên đường ngang qua vùng Nam Sách, Sư lại vào trong hang đá Thánh Chúa cấm túc sáu năm, tu hạnh đầu-đà.
13 điều cần phải thực thi khi giữ hạnh Đầu Đà
1. Y phục làm bằng những mảnh vải rách.
2. Chỉ dùng ba y.
3. Khất thực mà ăn.
4. Chỉ ăn một bữa vào giờ trưa.
5. Không ăn quá no.
6. Không giữ tiền bạc.
7. Sống độc cư.
8. Sống trong nghĩa địa.
9. Sống dưới gốc cây.
10. Sống ngoài trời.
11. Không ở cố định, thường du hành.
12. Ngồi ngủ, không nằm ngủ.
13. Chỉ dùng bình bát.
(3) Vua Lý Thần Tông (1128-1138) nhiều lần vời về kinh, Sư từ chối mãi, sau bất đắc dĩ mới nhận lời. Về đến kinh, vua sắc Sư ở chùa Gia Lâm để giáo hóa.
Về già, Sư trở về quê trụ trì chùa làng Tháp Bát quận Mãn Đẩu. Chính Sư trùng tu lại được chín mươi lăm ngôi chùa.
(4) Trong Việt Nam Phật Giáo Sử Luận của HT Thích Nhất Hạnh đã dựa vào hành trạng của đệ tử (Thiền Sư Giới Không ) mới biết được lý lịch (Thiền Sư Quảng Phước ) bị khuyết lục
Thế hệ thứ mười ba: Huệ Sinh (mất năm 1063), Thiền Nham (mất năm 1163), Minh Không (mất năm 1141), Bản Tịch (mất năm 1140) và hai người khuyết lục (có thể là Pháp Thông bạn đồng môn của Huệ Sinh và Biện Tài, giáo sư của Khánh Hỷ).
Thế hệ thứ mười bốn: Khánh Hỷ (mất năm 1142) và bốn vị khuyết lục trong đó có thể là Tính Nhãn và Tính Như, hai người bạn đồng môn, và Quảng Phúc, thầy của Giới Không.
Thế hệ thứ mười lăm: Giới Không (mất năm?), Pháp Dung (mất năm 1174) và một người khuyết lục, có lẽ là Thảo Nhất chùa Tĩnh Lự, thầy của Chân Không.
(5) Câu chuyện Thiền Sư Chỉ Y tự tại khi viên tịch còn ghi trong Ngữ Lục của Ngài Bổn Tịch Động Sơn (840-901) Tổ thứ hai của phái Tào Động
Thiền giả Chỉ Y đến tham vấn. Sư hỏi:
– Chỉ Y đó chăng?
– Dạ, không dám! _ Chỉ Y đáp.
Sư hỏi: Thế nào là việc của Chỉ Y?
Chỉ Y đáp: Áo lông cừu vừa mặc, vạn pháp thảy đều như!
Sư hỏi: Thế nào là dụng của Chỉ Y?
Chỉ Y đến gần cất tiếng dạ rồi thoát hóa.
Sư liền nói: Ngươi chỉ biết đi như thế, sao chẳng biết đến như thế?
Chỉ Y bỗng nhiên mở mắt hỏi: Chơn tánh minh linh, khi chẳng gá bào thai, thì thế nào?
Sư đáp: Chưa phải là diệu!
Chỉ Y hỏi: Thế nào mới là diệu?
Sư đáp: Chẳng gá mà gá!
Chỉ Y tạm biệt rồi thị tịch.
Sư làm bài tụng:
Giác tánh viên minh không tướng thân
Chớ đem tri kiến luận xa gần
Niệm khác, khiến cho Huyền thể ngại
Tâm sai, chẳng hợp đạo tương lân
Tình phân, vạn pháp chìm tiền cảnh
Thức chia, trăm mối mất bản chân
Trong câu, như thế toàn liễu ngộ
Rõ ràng vô sự, Tích thời nhân! (Người bản lai)
(6)
Trong câu thứ hai của bài kệ thị tịch
Ta có một việc kỳ đặc,
Chẳng xanh vàng đen đỏ trắng.
Màu vàng là màu của trí tuệ
Màu xanh màu của hy vọng
Màu trắng màu của sự thanh tịnh
Màu đen là màu của u ám , tang tóc
Màu đỏ lòng từ bi,
Màu lam chỉ sự vô thường , màu của khói hương
(7)
Bài kệ trong các buổi lễ cầu siêu người quá vãng được các Thầy xướng khai thị sau khi dâng cơm và cúng trà lần thứ hai
***............
Thấy Phật ngộ pháp tánh
Kiến Phật liễu sinh tử
Như Phật độ nhất thiết
Vô biên phiền não đoạn
Vô lượng pháp môn tu
Thệ nguyện độ chúng sanh
Đều trọn thành Phật Đạo ..