Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Viết cho Ba

16/10/202012:24(Xem: 2143)
Viết cho Ba




cha gia

Viết cho Ba

 

Sáng nay là ngày sinh nhật Ba, con nhớ Ba thật nhiều, giờ này con đang được nghỉ ăn trưa, con đi dọc theo con đường bên hông hãng nơi con thường đứng đó để gọi điện thoại thăm Ba, con mời Ba về xơi bánh mì và uống cà phê cùng con.

Trời bây giờ đã vào thu, gió lành lạnh, con đường thật yên tĩnh  thẳng tắp, màu xanh mùa hè của lá đã chuyển vàng, đỏ.

Tuổi học trò lại quay về trong con, ngày đó con học lớp đệ tam, con giữ sổ đầu bài, ngồi bàn đầu nên các Thầy thường hay lấy vở con để xem giảng tới bài nào, Ba gọi một học trò nam lên trả bài, cậu đó không thuộc Ba cho ngay con 02 /20 to tướng vào vở con với lời phê "không thuộc bài", lúc Ba trả lại tập, con mở ra mới thấy, ngập ngừng con thưa: "thưa Thầy, đây là tập của con", Ba cười khà khà và kêu con lên bảng trả bài, con thuộc, Ba cho con 18 điểm, Ba thương con lắm thường khen con ngoan nhất lớp và có mái tóc đẹp, mỗi lần tới giờ Ba dạy là tim con hồi hộp cộng thêm vui mừng, câu thành ngữ Ba dạy cho đám học trò để dễ nhớ khi xài với động từ être, đã 47 năm rồi tới giờ con vẫn nhớ

"ra vào lên xuống khởi hành đi về đến ở ngã thành tử sinh"

Có lần gặp con đi bộ về trên con hẻm Nguyễn Huệ, Ba dừng xe Honda lại nói "con lên xe thầy chở con về nhà", con riu ríu ngồi sau xe Ba, ai dè Ba rồ xe con trượt xuống, lúc phát hiện ra Ba quay lại thấy con đang lui cui ôm cặp, Ba hỏi "té đau không con? Sao con không kêu Thầy?" Con bẽn lẽn "thưa con không đau", rồi Ba chở con về nhà

Khi con lên đại học thì cộng sản vào, trước những cảnh khổ đau của cả xã hội vì chế độ vô nhân của bọn tà quyền cộng sản Ba thường tới nhà thăm con, con cảm động và nhớ những tháng ngày dưới mái trường Văn Lang vô cùng, mãi sau này con mới hay tin ông hiệu trưởng Ngô Duy Cầu đã quyên sinh sau ngày cộng sản cưỡng chiếm miền Nam, Ông đã đi theo các tướng giữ thành, con ngưỡng mộ kính phục vô cùng giờ đây khi viết những dòng chữ này, con thành kính vái lạy hương linh Ông, người đã lập lên mái trường cho thế hệ trước và cùng thời với con hồi đó. Giờ này chắc cũng có người thành công, nghĩ tới mái trường với Thầy Cô và ông Hiệu trưởng, cũng có những kẻ không thành công, nhưng thành nhân như con, luôn nghĩ về Quê Hương  về mái trường xưa nơi các thầy cô đã bỏ bao tâm huyết đào tạo trao truyền cho thế hệ sau, ân thầy cô con không bao giờ quên được.

Cuối năm 1983 con rời xa Quê Hương để qua bên này, trời mùa đông tuyết phủ tới gần tới đầu gối Má và anh còn ra đón con ở phi trường , Má khoác lên người con cái Mantel dầy nói : "ở ngoài trời lạnh lắm đó con, ba đau nằm nhà thương", lúc đó con xúc động vô cùng, ở xứ người trời lạnh, nhưng trong con ấm áp tình Gia đình thứ hai của con, đã sưởi ấm chút nhiều trong con cho sự nhớ nhà, nhớ Quê Hương, nhớ mái chùa Quan Âm nơi cố HT Quảng Đức trụ trì để nghe thầy Thích Thông Bửu giảng kinh Pháp Hoa vào mỗi chiều chủ nhật, nhớ tu viện Huệ Quang, hình ảnh hiền từ của HT Huệ Hưng, con ngồi tập thở theo lời HT dạy: thở vào, thở ra, như hơi thở đầu đời cho con sự sống thiền vị, tĩnh lặng, hiền hòa làm sao, nhớ Linh Quang Tịnh Xá, nhờ Gìa Lam, nhớ tịnh thất Ngọc Hương mỗi lễ lớn chúng con cúng dường trai tăng, chùa Dược Sư, chùa Pháp Hoa, với tiếng chuông vang vọng.

Con tới thăm Ba ngày hôm sau tại nhà thương Offenbach, Ba nằm trên giường bệnh, tươi cười nhìn con rồi nói : "con để đầu trên ngực ba" rồi Ba vuốt tóc con " học trò ba giờ con còn là con Ba",  con khóc. Những ngày con học tiếng xứ người Ba kèm con văn phạm, Ba pha cà phê cho con, cười Ba nói : " ba thay bố con đây", lúc đó con xúc động dường nào! tuổi học trò và lớp học bên cạnh thầy cô và bè bạn lại về trong con, nguyên vẹn. Một năm sau con đi làm vì không muốn chồng thêm gánh nặng cho xã hội đã cưu mang cho nhũng người Việt Nam lưu đày, vì nghĩ tới quê nhà, ba mẹ và các anh chị con đang chờ đợi, con đã xin vào hãng làm với tư cách công nhân.

Vất vả nơi xứ người, hai cháu đã sanh ra đời, còn nhớ năm nào đó Giáng Sinh con đến muộn vì phải đi làm, cả nhà đông đủ nhưng thiếu Ba, Ba nằm trong phòng, con vào thăm và đo áp huyết cho Ba, một lần nữa Ba lại nói con áp đầu lên ngực Ba, lại vuốt tóc con Ba ngập ngừng nói " Ba thương con lắm, những tưởng mang con qua đây cho con được sung sướng ai ngờ con vất vả quá!" Con nghe nghèn nghẹn và cảm nhận được tình thầy trò thuở nào đối với đứa học trò nhỏ mà Ba luôn phê trong học bạ con "chăm, ngoan". Nhiều lắm Ba ơi bao kỷ niệm mà con không viết ra đây.

Lần lần Ba già, sức yếu, trước tuần Ba ra đi con tới thăm Ba,  nấu bún măng giò heo Ba ăn hết một tô, lòng con vui mừng vì cả tháng trời qua Ba bỏ ăn gầy xọp, Ba muốn một trái ớt, con lấy ra Ba cười khà khà " mới nhắc nó mà nó hiện ra rồi!" Nụ cười ánh mắt Ba lúc ấy như trẻ thơ trông thật dễ thương. Đó là bữa cơm cuối cùng con được nấu cho Ba ăn như bữa ăn cuối cùng của Đức Phật.

Một tuần sau, ngày thứ bảy con đi làm trời mưa tuyết chạy ra chợ mua để nấu súp măng của cho Ba dùng nhưng không còn kịp nữa, Ba ra đi bình an trên tay người chăm sóc  cho Ba,  Ba còn mỉm cười nói lời cảm ơn. Phút cuối cùng con không được ở cạnh Ba nhưng nghe chị Chi kể lại Ba nói "xa tất cả rồi", nghe thật bi thương.

 

Cảm niệm Ba, nhớ những gì Ba tâm sự, con viết:

 

Xuân này Ba đâu?

Tết này con chẳng thấy xuân đâu

Hoa cúc vàng mai đã héo sầu

Én lượn trên cành tíu tít hỏi

Bóng hình Ba mãi ở phương nao?

Cửa sổ không còn bóng Ba yêu

Dõi mắt nhìn theo ánh nắng chiều

Nhớ về quê mẹ xa xôi lắm

Tóc bạc đầu từng sợi trắng tiêu

Lặng lẽ Ba ngồi buông tiếng thở

Nhớ về quê nội thuở còn thơ

Nghệ An quê nội xa muôn cách

Ngày đi ba hứa sẽ quay về

Thăm ông bà nội làng quê cũ

Thỏa dạ lòng ba Nội nhớ mong

Ai ngờ vận nước mãi long đong

Ngăn đôi bờ bến chẳng tương phùng

Một lần xa cách thôi không gặp

Nội ngồi tựa cửa ngóng chờ trông

"Quán Âm bồ tát cho ba khỏe

Nước nước nhà nhà dạ xót xa"

Mười ba tháng chạp Ba ra đi

Đau xót lòng con khóc biệt ly

Hồn Ba thanh thản về quê Nội

Thổn thức lòng con dạ ngấm sầu

Hồn Ba nhẹ bước nương theo kinh

Địa Tạng độ người dương hiển linh

Rước Ba về chốn ngày xưa cũ

Nguyện độ muôn loài thương chúng sinh

Cúi đầu đảnh lễ chư Tăng Ni

Cùng bao đại chúng tiễn Ba đi

Chim hót lá rung cành vẫy gọi

Đón Ba về thế giới an lành

Con thấy Ba cười mắt lung linh

Ba về cõi ấy trồng cây Phật

Nguyện độ muôn loài thương chúng sinh

Cúi đầu con tiễn bước Ba đi

 

Ba ơi, Ba sống mãi trong con với tình sư phụ, có những buổi trưa hè oi bức Ba đến kèm con để con thi vào đại học trong căn nhà ọp ẹp của gia đình con .Vì vậy với con, sinh nhật Ba là mỗi lần con chúc thọ miên trường, Ba không bao giờ xa cách..

Làm sao con quên được những ngày trong tuổi xế chiều, khi vào nhà thương thăm Ba, hay những khi cha con tâm sự, ánh mắt thật xa xôi , Ba kể về kỷ niệm thời thơ ấu của Ba nơi vùng quê Nghệ An, có ông nội, bà nội, có cô hàng xóm thân yêu và bạn bè, khi thành tài Ba chỉ muốn xa quê lập nghiệp rồi sẽ trở về phụng dưỡng ông bà Nội, nhưng vận nước chia ly Ba đi mãi không về để thực hiện lời hứa xưa.

Bốn năm rồi Ba trở về quê Nội Nghệ An, Ba tìm thấy gì nơi chôn nhau cắt rốn? Ba thấy thuở xưa bên ông bà nội với hình ảnh thân thương? Cái thời của gần một thế kỷ đã trôi qua, mảnh đất nghèo nhưng đầy tình người , hỏi ai ra đi mà không một lần nhớ về quê cũ?

Sau 46 năm "giải phóng" người miền Nam bị đọa đày lưu lạc, người miền Bắc sống trong lòng cộng sản cũng bỏ cộng sản ra đi như cây cột đèn của miền Nam. Ba chắc xót xa khi thấy cảnh cả làng Nghệ An Hà Tĩnh cũng bỏ làng ra đi tìm mưu sinh, tìm tự do, trong các thùng phi đông lạnh 25 độ vừa qua, 39 xác người đã tới bến bờ tự do bằng những xác ướp đông lạnh trước sự đón rước của những nhà đấu tranh cho nhân quyền bằng những ngọn nến lung linh, ánh mắt xót thương cho dân tộc Việt Nam với những hàng chữ "REFUGEES WILLCOME!" Khiến mọi người xót thương cho dân tộc VN. Có gì đau xót trong con, có phải chăng con xót cho sự thương hại của các quốc gia khác cho dân tộc mình? Con cần một phép màu cho dân mình vùng dậy thoát khỏi ách cộng sản.

Con không cần bất cứ sự thương hại nào cho dân tộc con.  Dòng máu con Hồng cháu Lạc phải được sống dậy để khôi phục lại cho Quê Hương, chế độ bạo tàn nào rồi cũng sụp đổ, con thắp nén hương lòng cầu nguyện cho 39 linh hồn của những người quá cố đi tìm tự do trong cái chết, con thành kính phân ưu với gia đình họ, cái chết của họ đã như những cú đánh thẳng vào mặt bọn cầm quyền cộng sản Việt Nam, họ sanh và lớn lên trong lòng cộng sản nhưng cũng từ đó bỏ ra đi vì thấy rằng không còn đất sống, còn gì đâu khi thức ăn độc, khí độc , phẩm giá con người cũng mất luôn, không được tôn trọng!

Ba ơi Ba có thương cho Việt Nam? Ba có thấy những xứ sở nhân bản họ đang thắp nến cho những linh hồn quá cố? Ba có thấy những người cảnh sát Anh họ cúi đầu ngả nón chào khi chiếc vận tải chở thùng phi 39 xác đông lạnh ngang qua? Những bó hoa đầy  tình người  cùng những ngọn nến được thắp lên để tưởng niệm làm ấm lòng người quá cố, cho thân nhân  có chút niềm an ủi, dù họ không cùng một chủng tộc, một màu da. Trong khi bọn tà quyền cộng sản Việt Nam ăn trên xác đồng bào không một chút tủi nhục, chúng đập nhà, cướp bóc hiếp đáp người dân, miệng vẫn nhởn nhơ ra rả tự hào rao giảng: „nước ta  hạnh phúc ấm no“.

Sau 44 năm dưới chế độ cộng sản  lại diễn ra cảnh vượt biển trên lòng biển cả lại tái diễn, nhưng lần này bằng những thùng phi đông lạnh ướp thịt người cũng không kém phần làm rúng động lương tâm con người cho hai chữ „TỰ DO

Con xin cúi đầu tưởng niệm tới hàng triệu nạn nhân vượt biển cùng những nạn nhân đã bị chết đi thảm thương bởi bàn tay nhuộm đầy máu của bọn cộng sản Việt Nam bán nước, hại dân

Con xin cầu nguyện cho con người Việt Nam sớm cùng nhau đứng lên lật đổ chế độ tham tàn này để không còn thấy cảnh tang thương , đớn đau trên thân xác Mẹ Việt Nam


Con gái của Ba
Diệu Danh
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
11/01/2018(Xem: 5126)
Vào những năm đầu của thập niên 2000, khi cây bút đang còn sung sức, tôi viết rất nhiều bài về danh lam thắng cảnh trên quê hương Nha Trang của mình để giới thiệu trên các báo và tạp chí khắp đất nước. Trong số đó, hiển nhiên là có bài viết về ngôi chùa đã lưu nhiều hình ảnh, dấu ấn kỷ niệm vào ký ức tuổi thơ của tôi với tên gọi thân quen mộc mạc: “Chùa Núi Sinh Trung”.
08/01/2018(Xem: 11364)
Hồi còn tại thế xưa kia Trên đường giáo hóa Phật đi qua làng Ngài đi cùng ông A Nan Khai tâm gieo ánh đạo vàng giúp dân. Đang đi ngài bỗng dừng chân Bước quanh lối khác có phần xa thêm Ông A Nan rất ngạc nhiên Vội lên tiếng hỏi. Phật liền giảng ra: "Này A Nan phía trước ta Có quân giặc cướp thật là hiểm nguy Sau ta ba kẻ đang đi Gặp quân giặc đó khó bề thoát qua!"
08/01/2018(Xem: 9536)
Ở bên Ấn Độ thuở xưa Nơi thành Xá Vệ, buổi trưa một ngày Gia đình kia thật duyên may Phật thương hóa độ, dừng ngay tại nhà, Tiếc thay chồng vợ tỏ ra Tham lam, độc ác, xấu xa, hung tàn. Hóa thành một vị đạo nhân Phật đi khất thực dừng chân trước thềm Ôm bình bát, đứng trang nghiêm, Anh chồng đi vắng, vợ liền nhảy ra Tay xua đuổi, miệng hét la
07/01/2018(Xem: 7804)
Sau mỗi lần có dịp viếng thăm các chứng tích như tượng đài, lăng mộ, viện bảo tàng, nhà lưu niệm, ..., của những nhân vật mà cuộc đời phần nào liên quan đến đời sống vật chất hay tinh thần, sự thịnh suy ,... của một nhóm người, một dân tộc, một vùng, một quốc gia,..., tôi ra về lòng những bâng khuâng với hai câu : Những người muôn năm cũ Hồn ở đâu bây giờ ? trong bài thơ Ông Đồ của nhà thơ Vũ Đình Liên.
21/12/2017(Xem: 3816)
Anh sinh ra và lớn lên ở miền gió cát khô nóng Phan Rang. Là một Phật tử thuần thành, lại được phước báu khi có đến hai người con trai xuất gia, nên nhân duyên đưa đẩy đã trở thành đạo hữu của tôi qua nhiều lần hội ngộ lạ lùng ở các thiền viện thuộc dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử. Kết tình đạo hữu với nhau đã gần mười năm rồi, mỗi lần gặp mặt, tôi và anh đều tay bắt mặt mừng, trò chuyện thân mật, nhưng người huyên thiên lúc đàm đạo là anh, còn tôi thì cứ chỉ biết gật gù, mỉm cười, họa hoằn lắm mới buông một đôi câu phụ họa. Anh quý mến tôi ở điểm đó.
15/12/2017(Xem: 6374)
Hương Lúa Chùa Quê" Bản Tình Ca Quê Hương của nhị vị Hòa Thượng Thích Bảo Lạc và Thích Như Điển. Sau khi đọc tác phẩm “Hương Lúa Chùa Quê” chúng con không dám mong ước giới thiệu sự nghiệp văn học, văn hóa cả đạo lẫn đời của nhị vị Hòa Thượng. Vì công trình tạo dựng sự nghiệp của các bậc xuất sĩ không nằm trong “nguồn văn chương sáng tác”. Vì xuyên qua mấy chục năm hành đạo và giúp đời, nhị vị đã xây dựng nhiều cơ sở Phật giáo đồ sộ trên nhiều quốc độ khác nhau như: chùa Pháp Bảo tại nước Úc; chùa Viên Giác và Tu viện Viên Đức tại nước Đức. Nhị vị cũng đã mang ánh Đạo vàng đến khắp muôn nơi, soi sáng cho bước chân “người cùng tử” được trở về dưới mái nhà xưa, để thấy lại “bóng hình chân nguyên”; dẫn đường cho những người chưa thể “tự mình thắp đuốc lên mà đi” được tìm lại “bản lai diện mục”. Đó mới gọi là “sự nghiệp” của bậc xuât sĩ. Điều nầy đã có lịch sử ghi nhận từ mạch nguồn công đức biểu hiện và lưu truyền.
15/12/2017(Xem: 87484)
Trải hơn 25 thế kỷ, Chánh Pháp của Phật vẫn được tuyên dương và lưu truyền bởi hàng đệ tử xuất gia lẫn tại gia, đem lại giải thoát và giác ngộ cho những ai học hỏi và thực hành đúng đắn. Chánh Pháp ấy là thuốc hay, nhưng bệnh mà không uống thì chẳng phải là lỗi của thuốc. Trong kinh Di Giáo, đức Phật cũng ân cần huấn thị lần chót bằng những lời cảm động như sau: “Thể hiện lòng đại bi, Như Lai đã nói Chánh Pháp ích lợi một cách cứu cánh. Các thầy chỉ còn nỗ lực mà thực hành… Hãy tự cố gắng một cách thường trực, tinh tiến mà tu tập, đừng để đời mình trôi qua một cách vô ích, và sau này sẽ phải lo sợ hối hận.” Báo Chánh Pháp có mặt để góp phần giới thiệu đạo Phật đến với mọi người. Ước mong giáo pháp của Phật sẽ được lưu chuyển qua những trang báo nhỏ này, mỗi người sẽ tùy theo căn tánh và nhân duyên mà tiếp nhận hương vị.
29/11/2017(Xem: 6652)
Trong loạt bài Kể Chuyện Đường Xa lần này, người viết đặt thêm tên cho mục này Vòng Quanh Thế Giới, để có cùng tên với loạt phóng sự sẽ đưa lên tvtsonline.com.au với nhạc hiệu mở đầu của bài “Vòng quanh thế giới” người viết sáng tác gần bốn thập niên trước đây. Từ năm 1990, chúng tôi đã bắt đầu viết bút ký với chuyến đi Bangkok (Thái Lan) và loạt bài cuối cùng là chuyến du lịch Âu Châu vào năm 2015.
27/11/2017(Xem: 4898)
Nếu chấp nhận thuyết nhân duyên của Đạo Phật thì có thể dễ dàng, giải thích cho mọi tình huống và mọi sự việc xảy ra trong cuộc đời nầy. Nhân duyên hay duyên sanh cũng tương tự với nhau. Đó là: „Cái nầy có cho nên cái kia có; cái nầy sanh cho nên cái kia sanh. Cái nầy diệt, cho nên cái kia cũng diệt theo“. Không ai trong chúng ta có thể biết trước được việc gì sẽ xảy đến cho mình về sau nầy cả; dầu cho chúng ta có cố gắng làm mọi việc tốt đẹp trong hiện tại; nhưng dư báo trong quá khứ, ai biết được thiện, ác còn lại bao nhiêu mà lường được. Chỉ khi nào nắp quan tài đậy lại trong kiếp nầy, thì lúc ấy ta mới biết được cái quả trong hiện tại là cái nhân như thế nào mà trong quá khứ của chúng ta đã gây ra và chính cái quả của ngày hôm nay sẽ là cái nhân cho ngày sau nữa.
01/11/2017(Xem: 4375)
Hôm nay ngày 1.11 tôi viết bài này chỉ nhằm kể một câu chuyện thực tế lịch sử; vì đâu, nguyên nhân, tôi xin miễn đào sâu vì cũng không có đủ hiểu biết, thời gian và cũng không phải mục đích tôi muốn chia sẻ ở đây! Ba mẹ tôi đều sinh ra và lớn lên tại Huế, học xong tú tài ở trường Khải Định năm 1955 (tên lúc bấy giờ của trường Quốc Học Huế). Giai đoạn đó đất nước vừa chia đôi, TT Ngô Đình Diệm vừa chấp chính. Ông Diệm xuất thân từ gia đình quan lại, bản thân ông cũng từng đỗ đạt ra làm thượng thư như cha của ông là Ngô Đình Khả, anh là Ngô Đình Khôi, nên rất trọng bằng cấp, học vấn như lối suy nghĩ của tầng lớp trí thức nho học thời bấy giờ. Vì vậy ông Diệm rất ưu tiên cho ngành giáo dục, đặc biệt trong giai đoạn sau 1954 khi người Pháp rời khỏi VN, cần xây dựng một nền giáo dục bản xứ thay thế cho nền giáo dục thuộc địa của Pháp.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]