Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Truyện ngắn: Con Nuôi

20/04/202020:35(Xem: 2036)
Truyện ngắn: Con Nuôi

         
co gai que va hoa sen
Truyện ngắn

 CON NUÔI

 

          Thắp xong mấy nén hương trầm, lâm râm khấn vái, dâng lên bàn thờ Phật, rồi bàn thờ gia tiên, dì Thêm thở dài, bước từng bước năng nề xuống bậc cấp cầu thang lát đá nhám màu đen sậm, mắt dõi theo hai bàn chân của mình đổi phiên nhau đặt từng bước xuống lần bên dưới. Cũng là những bước đó trước giờ, nhưng sao tối nay tự dưng dì cảm thấy như mình đang bước dần xuống hố sâu u ám đang chứa đầy nỗi thất vọng, buồn tênh… Hết bậc cấp, dì lê gót đến ngồi phịch xuống ghế sofa êm ái, nhìn bâng quơ qua cửa kính ra ngoài sân, cổng trước… Dì Thêm đang nghĩ về đứa con gái của mình.

        Nó tên Nuôi, vì nó là con nuôi, không phải  là đứa con mà dì phải mang nặng đẻ đau. Trong một chuyến hành hương vào Nam cùng chồng cách đây mười năm, dì đã hữu duyên gặp được nó trong một ngôi chùa sư nữ ở miền Tây sông nước. Chùa nhỏ vùng nông thôn vắng lặng, từ một tịnh thất tu niệm được kiến tạo nhiều đợt để trở thành ngôi thờ phụng Tam Bảo khang trang rộng rãi hơn, mang tên Phước Điền. Chùa chỉ có bốn sư cô tu học, cùng vị trú trì là Ni sư Viên Nguyên, Khi dì Thêm cùng ông Hiên, chồng của dì, theo tiếng đồn mà dò dẫm đến chùa, thì ở đó đã có nuôi dạy bảy đứa trẻ mồ côi, chúng đều là những hài nhi bị cha mẹ bỏ rơi, lén lút đem đặt trước cổng hoặc dưới gốc cây bồ đề trong sân chùa. Từ khi nhận cưu mang đùm bọc đứa trẻ đầu tiên, ni chúng ngoài giờ tu học tụng niệm, còn mang thêm thiên chức giáo dưỡng thay cho những người mẹ, người cha vì hoàn cảnh, vì lý do nào đó đã không thể nuôi dạy đứa con máu mủ của mình. Nhà chùa dẫn dà hóa thành nhà nuôi trẻ, với sự giúp sức hợp lực của chính quyền thôn xã và bà con Phật tử quanh vùng, để từng đứa trẻ lớn lên theo năm tháng trong vòng tay ấm áp tình thương yêu của những người xuất gia bất ly thế gian.

         Dì Thêm nhớ như in, ngày đến chùa lần đầu tiên, cũng là lần đầu tiên gặp gỡ đứa bé gái mồ côi đã tám tuổi, nó cứ lẽo đẽo đi theo dì từ ngoài sân, đến thềm hiên, dọc hành lang, vào phòng khách, rồi cứ đứng giương đôi mắt tròn xoe nhìn dì khi dì đã ngồi hầu chuyện với Ni sư trú trì… Dì cảm nhận được một luồng điện râm ran khó tả chạy khắp người mình, chừng như có một sợi dây vô hình ràng buộc dì với đứa bé, một mối lương duyên kết nối tình cảm thiêng liêng, mà dì chợt hiểu ra đó là “duyên nợ oan gia từ kiếp trước”, khiến cho dì phải thấy nao nao trong lòng, xốn xang trong tim… Vậy nên, dì đã hỏi thăm cặn kẽ về thân nhân đứa bé, được Ni sư cho hay nó đã được nhà chùa nuôi dạy tám năm, từ lúc còn đỏ hỏn nằm gọn trong chiếc khăn lông đặt dưới gốc bồ đề ngoài sân trước. Nó là đứa bé thứ hai bị bỏ rơi được nhà chùa nhận nuôi. Ni sư đã đặt tên cho từng đứa, tục danh thì dùng họ của Ni sư là Lê Thị, tên thì theo thứ tự Diệu Nhất, Nhị, Tam,,, đến đứa cuối cùng là Diệu Thất. Nó là Lê Thị Diệu Nhị, mà Diệu Nhị cũng chính là pháp danh ghi trong phái quy y Tam Bảo. Ngay ngày hôm đó, vợ chồng dì Thêm đã bàn bạc với nhau trên ghế đá ngoài sân cạnh chánh điện, đồng lòng muốn nhận đứa gái tên Diệu Nhị đó về làm con nuôi, thay thế bù lấp vào chỗ bỏ trống của đứa con gái ruột đã qua đời vì bệnh từ mười năm trước, rồi trình thưa ước nguyện với Ni sư trú trì. Thấy hai vợ chồng chân thành tha thiết quá, Ni sư không thể khước từ, nhưng cũng không thể quyết định vội vàng ngay lúc đó, vì còn phải xin ý kiến của nhiều người khác, nên Ni sư đã hẹn một tháng sau sẽ báo tin. Rồi đúng một tháng sau, Ni sư báo tin đã chấp thuận để Diệu Nhị rời khỏi chùa, để về làm con trong một gia đình khá giả ngoài miền Trung xa xôi… Hai vợ chồng dì Thêm đã tức tốc vào lại miền Tây, để rồi khi trở về họ có thêm một đứa con nuôi dễ thương và lễ phép. Ông Hiên đã lo hết thủ tục hộ tịch, làm lại khai sanh mới, đặt tên mới cho đứa bé theo họ của ông là Trần Thị Nuôi, pháp danh vẫn là Diệu Nhị.

         Mười năm, gia đình có thêm thành viên nên đỡ trống vắng, nhưng ông Hiên đã từ trần sau cơn đột quỵ ba năm trước, Nuôi được sống trong vòng tay thương yêu bảo bọc của người cha chỉ bảy năm.  Mười năm trôi qua, Nuôi đã được cho ăn học đầy đủ đến cuối cấp trung học, đã là một thiếu nữ tuổi mười tám tươi xanh, nhưng nó đã xin thôi học, để ở nhà đỡ đần và phụng dưỡng mẹ trong những tháng năm trong nhà đã vắng bóng người đàn ông trụ cột, cũng như phụ giúp mẹ trông coi quán tạp hóa. Nhà của dì Thêm là ngôi nhà đúc rộng rãi, trên diện tích hơn trăm mét vuông, có gian lửng làm phòng thờ riêng biệt, nằm ở khu vực ven thành yên tĩnh. Nói là nhà phố cũng không đúng, mà nhà quê cũng không đúng, lưng chừng phố quê, nên quán tạp hóa mở phía trước sân nhà và một phần diện tích của phòng khách đã trở thành địa điểm quen thuộc của cư dân các xóm cận kề từ năm năm về trước, là nguồn thu nhập đáng kể của dì Thêm để có đồng ra đồng vào nuôi đứa con gái ăn học, và giết bớt thời gian nhàn rỗi dễ sinh chán chường khi tuổi tác của cả hai vợ chồng ngày càng cao. Đến khi Nuôi lấy được bằng tốt nghiệp rồi nghỉ học, dì Thêm đã giao phó hết công việc nhà, cũng như trông coi mua bán của quán tạp hóa cho đứa con gái, mà không một mảy may nghi ngại. Dì Thêm vui lắm, rất an tâm tin tưởng khi thấy Nuôi đảm nhận rồi quán xuyến mọi việc rất chu toàn và thuần thục…

          Nhưng, sau cái Têt Canh Tý vừa rồi, khi đại dịch viêm phổi do virus Corona xuất hiện gây điên đảo tang thương khắp đó đây, tiếp đến là chỉ thị của chính phủ về cách ly xã hội để phòng chống lây nhiễm virus, cuộc sống đã bị xáo trộn, ngưng trệ, đầy thấp thỏm lo âu, cũng là lúc đứa con gái nuôi của dì Thêm lộ mặt thật gian manh dối trá.

       Thất vọng. Hụt hẫng. Cả một tòa lâu đài niềm tin sụp đổ. Đợt cách ly xã hội đầu tiên với mười lăm ngày, thì mới chỉ một tuần là dì Thêm đã phát hiện, nhận biết sự gian dối làm dì lòng đau như cắt, đau đến nỗi dì đã không dám gọi con gái đến để hạch hỏi, truy vấn những biểu hiện mà dì đã thấy được, đếm được… Dì nuốt nghẹn, im lặng, làm bộ ngu ngơ như chưa hề biêt gì để âm thầm theo dõi tiếp thêm năm ngày nữa, như muốn tìm thấy thêm chứng cứ cho chắc chắn để kẻ phạm tội không còn lý lẽ chối cãi…

       Đến chạng vạng hôm nay thì dì Thêm đã không còn nhẫn nhịn được rồi, dì thắp hương lạy Phật, vái hương linh chồng, rồi ngồi chờ con Nuôi về, nhất định tối nay sẽ làm cho ra lẽ, không dung thứ nữa. Và rồi, nó đã về. Nó bước qua cổng qua sân vào nhà bằng những bước nhí nhảnh, và vẻ mặt rạng rỡ… Dì Thêm ngồi nơi ghế sofa với mặt lạnh như băng giá, mắt long lên sòng sọc nhìn con gái, khiến nó khựng người lại, mặt mày tối sầm rồi chuyển sang xanh tái thật thảm hại. Dì nghiêm nghị chỉ ghế đối diện, hằn học lệnh cho nó ngồi xuống, rồi dì nói luôn không chần chừ:

        “Ngồi đó dỏng tai lên mà nghe hỏi thôi, khi nào tao biểu trả lời mới được mở miệng. Câu hỏi thứ nhất: tiền lãi từ 100 triệu giao cho mày, năm phần trăm hằng tháng, vị chi là năm triệu đồng, cho nhóm thợ xây dựng của thằng Kiệt vay với tinh thần hỗ trợ gần hai năm qua, trước giờ mày đều mang về đầy đủ đúng hẹn giao cho tao, rồi tao cũng cho mày đó thôi chứ đâu giữ đồng xu nào, sao hai tháng rồi không thấy?”

      “Dạ… thưa mẹ… mẹ bớt giận… mẹ đừng xưng mày tao… con nghe đau xót quá!”

       Nuôi nghẹn ngào, mới ấp úng nhiêu đó thì dì Thêm đã đập bàn, quát nạt:

      “Im. Tao đã biểu là không mở miệng mà. Chờ tao hỏi xong  đã. Câu hỏi thứ hai: Hàng hóa trong quán trước ngày cách ly xã hội, đang đầy chồng chồng đống đống, tự dưng hai ngày rồi bay hơi, biến mất tăm, để lại nhiều khoảng trống trên kệ, trên tủ… Tao kiểm tra sơ qua mà đã thấy mất đi rất nhiều mắm muối,  xì dầu, bột ngọt, đường, sữa, dầu ăn, và cả chục thùng mì gói nữa. Số hàng đó mày mang đi bán ở đâu rồi? Nếu đã bán được thì phải báo cáo thu chi cho tao như bao năm qua chứ, sao hai ngày rồi mày vẫn im thin thít, tự ý tự quyền làm như tao đã chết mất rồi vậy?!”

       “Mẹ…”

        “Im! Chưa được phép trả lời. Còn câu cuối nữa: ngoài kia dịch bệnh hoành hành, lệnh cách ly đưa ra thì phải ở nhà, ai ở yên đó, chỉ ra ngoài khi thật sự cần thiết, vậy mà mày vẫn cứ lén lút đi đâu đó khi tao đang ngủ nghỉ. Rồi tao mà hỏi mày đi đâu, mày cứ nói là qua chùa, chùa cũng đóng cửa cổng thời gian này chứ đâu mở toang như trước mà mày qua với đến? Mày đi đâu, làm gì, giao tiếp với ai?”

         Dì Thêm nghiêm sắc mặt, hơi thở rất nặng nề và dồn dập, nhìn con gái bằng đôi mắt đỏ ngầu đầy giận dữ. Nuôi  ngồi bất động, mím môi, chờ đợi. Dì Thêm buông mấy tiếng  cộc cằn:

        “Trả lời đi, Tuần tự, rõ ràng và đúng sự thật đi. Tao nghe đây!”

        Bấy giờ, Nuôi mới dám đứng dậy, chồm đến bộ bình ly nơi đầu bàn, rót nước đầy ly, hai tay bưng mời mẹ, giọng nhẹ nhàng:

        “Mẹ uống miếng nước cho hạ cơn giận cái đã, rồi con xin thưa chuyện ạ!”

       Chỉ một cử chỉ đó của con gái thôi, chưa uống hớp nước nào mà dì Thêm đã bỗng thấy gió mát lùa vào nhà, những cộc cằn hung hăng mới rồi trong thoáng chốc bỗng tan biến đâu mất. Nó, con Nuôi, xưa nay vốn là vậy rồi. Lễ phép, hiếu thảo như cô tiên nữ trong nhà đã từng làm cho người mẹ xua tan đi được phiền não, mệt nhọc, và nguôi ngay những lo lắng, dỗi hờn… Dì Thêm nhận ly nước, nhìn thấy đôi mắt con gái đang rưng rưng, liền hớp liền một hơi hết ly nước khoáng tinh khiết. Chờ mẹ đặt ly xuống bàn, Nuôi mới thưa với giọng nghèn nghẹn:

       “Thưa mẹ, trước tiên con xin cúi đầu nhận lỗi với mẹ, con xin mẹ bao dung tha thứ, lỗi của con là trễ nãi chậm chạp, không báo trình sớm rõ ràng sự việc, để mẹ phải lo lắng buồn bực. Con vì muốn dành bất ngờ đến phút cuối, và nhất là con cứ chủ quan, nghĩ rằng mẹ luôn hiểu con, tin tưởng con, biết hết lòng dạ của con gái mẹ sẽ không bao giờ thay đổi, nên con mới chểnh mảng…”

       Nuôi nhìn mẹ đăm đăm với đôi mắt tròn xoe, thấy được sắc diện của mẹ đã không còn nét giận dữ. Dì Thêm ngồi như bất động, lòng lắng dịu, lắng nghe.

      “Thưa mẹ, về khoản tiền lãi hằng tháng nhận về từ nhóm của anh Kiệt, đúng là năm triệu mỗi tháng, hai tháng là mười triệu, đó là khoản tiền mẹ đã cho vay hỗ trợ giúp đỡ những người lao động nghèo, họ đã đến kể lễ than van về nạn cho vay nóng với lãi suất cao của giới xã hội đen, họ năn nỉ van xin nhiều lần nên mẹ mới giao việc đó cho con đảm trách… Từ sau Tết, nhóm thợ xây dựng này gồm thợ hồ, thợ sơn, thợ sắt, thợ điện nước đều thất nghiệp, lại dính thêm cây dịch viêm phổi, mọi người phải cách ly, lâm cảnh nghèo ngặt khốn khó. Ờ khắp nơi, nhiều chủ nhà trọ đã không nhận tiền trọ, miễn phí cho người lao động nghèo đến hai, ba tháng, hoặc giảm bớt tiền thuê mấy mươi phần trăm rồi tặng thêm gạo mì mắm muối… Con vì hiểu lòng mẹ xưa nay vốn nhân từ, rộng lượng, nên đã thay mặt mẹ mà miễn nhận tiền lãi cho nhóm thợ xây dựng tạm thời trong hai tháng, chờ tình hình đại dịch diễn biến ra sao rồi tính tiếp!”

        “Ồ… con đã làm được việc đó sao?” Dì Thêm sáng rỡ mặt mày hỏi.

        “Dạ, con đã thay mặt mẹ mà chia sẻ để vơi bớt gánh nặng cho họ rồi. Lỗi của con là làm trước báo sau, đúng phép thì phải hỏi ý mẹ trước rồi mới được làm. Mẹ có đồng ý không?”

        Dì Thêm vui ra mặt, vỗ nhẹ đùi một cái, cao giọng:

        “Dĩ nhiên là đồng ý cả hai tay rồi. Con hiểu lòng mẹ, vậy là tốt rồi. Mẹ cũng muốn làm những việc từ thiện nho nhỏ như vậy, định hỏi ý con, mà cứ chần chừ… Thôi ổn rồi, chuyện đó cho qua. Còn chuyện hàng hóa trong quán vơi mất thì sao?”

       Thấy mẹ đang vui, thái độ khác hẳn, Nuôi liền rời chỗ ngồi, sà qua ngồi bên dì Thêm, giọng nủng nịu:

        “Con mang đi một số nhu yếu phẩm qua nộp bên chùa rồi ạ. Chùa có vận động quyên góp của Phật tử, lá lành đùm lá rách, để phát chẩn hỗ trợ cho người già yếu, tàn tật, và người nghèo khó trong thời gian cách ly xã hội không kiếm ra tiền. Quán nhà mình không có gạo, nên sẵn có món gì thì con gom để đóng góp… Mới chiều nay con vừa chuyển qua chùa thêm một đợt, hồi nãy định về đến nhà là báo cho mẹ hay…”

       “Ui trời… cái con bé này…” Dì Thêm nhướng mắt lên, xoa đầu con gái “Con thiệt bậy, bậy là làm mà không hỏi, không bàn trước cho mẹ biết…”

       Nuôi định mở lời thì ngay lúc đó có người đứng ngoài cổng gọi vọng vào:

        “Chị Diệu Nhị ơi… chị Diệu Nhị…”

       Cả hai mẹ con đều giật mình, cùng chồm người hướng nhìn ra phía cổng ngoài sân, nhìn thấy đó là một chú sa di bên chùa Thiền Quang. Dì Thêm liền đẩy thúc con gái chạy ra cổng, rồi ngồi đó dõi mắt nhìn với tâm trạng khác lạ. Một hồi, chú sa di đã rời khỏi nơi cổng ngõ, Nuôi quay vào nhà với nét mặt tươi tắn, tay cầm một mảnh giấy màu vàng, trình cho mẹ. Dì Thêm nhận mảnh giấy, trố mắt lên đọc từng chữ từng hàng. Đó chỉ là một tờ biên nhận “tán dương công đức” của nhà chùa, trên đó ghi rõ “Đã nhận của bà Nguyễn Thị Thêm một số nhu yếu phẩm với tổng trị giá năm triệu bảy trăm năm mươi nghìn đồng, đóng góp phát quà từ thiện cho người nghèo trong thời điểm cách ly xã hội phóng chống đại dịch COVID-19”. Mắt dì Thêm nhòa đi, dì đang xúc động như đang mới đọc xong kết quả trúng thưởng giải đặc biệt của xổ số kiến thiết. Nuôi ngồi một bên, tay xoa lưng mẹ:

       “Nãy con vội vàng chạy về, chưa kịp lấy giấy biên nhận, nên Thầy mới sai chú Quảng Long qua đưa, và nhắn là nhà chùa đang thiếu nhân sự phân chia, gói từng gói quà để kịp sáng mai phát kèm với gạo cho người nghèo. Thầy nói nếu con rãnh được thì chạy qua, còn không thì thôi, mẹ ạ!”

         “Vậy sao?”  Dì Thêm ngồi thẳng lưng lên, đẩy con gái “Con mau qua chùa phụ giúp Thầy đi. Mỗi người một tay mới xong việc, chứ phân chia gói ghém lâu lắm đó! Đi liền đi con!”

        Nuôi  hí hửng đứng dậy, chạy vào trong để rửa ráy thay đồ. Dì Thêm ngồi nơi ghế sofa bần thần, nhìn lên phòng thờ trên gian lửng, nước mắt chưa được phép của dì mà đã chảy ròng ròng hai hàng không kềm nén lại được… Một chặp, dì đứng dậy, bước từng bước khoan  thai nhẹ nhàng lên từng bậc cấp cầu thang. Khi dì mới lên được lưng chừng cầu thang, thì Nuôi từ nhà trong đi ra. Dì dừng chân. Nuôi đứng lại. Hai mẹ con nhìn nhau, Nuôi lên tiếng:

      “Thưa mẹ, con qua chùa đây ạ!”

       “Ừm, con đi đi. Đóng bớt cửa sắt, cổng ngoài cho cẩn thận nghen con.”

        Nuôi mới bước được mấy bước ra đến thềm cửa, chợt nghe tiếng mẹ gọi giật ngược:

        “À nè, con gái…”

        “Dạ, mẹ dạy gì ạ?”

         “Không, không dạy gì dặn gì nữa đâu. Mẹ chỉ muốn nói lời…”

        “Sao ạ?”

        “Mẹ xin lỗi. Và, cảm ơn con. Cảm ơn con!”

 

                                                              Tâm Không – Vĩnh Hữu 

  

Ý kiến bạn đọc
22/04/202012:35
Khách
Truyện hay quá.Đây là một trong những truyện hay của nhà văn Vĩnh Hữu. Chỉ có duyên lành bắt nguồn từ cửa chùa mới có kết quả ấm áp như vậy. Vinh danh lòng từ bi của nhà Phật.
Cám ơn nhà văn Vĩnh Hữu đã viết ra một cốt truyện thâm thuý như thế.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
12/02/2022(Xem: 7738)
Năm 2011 Tu Viện Quảng Đức lần đầu tiên tổ chức chuyến Hành hương Nhật Bản và Đại Hàn, nhưng năm đó Nhật có biến cố động đất và sóng thần nên lịch trình hành hương trên xứ Nhật bị hủy bỏ. Cho đến nay sau 7 năm, Thầy Trụ Trì Thích Nguyên Tạng và anh Tony Thạch, Giám đốc Công Ty Du Lịch Triumph Tour, lại một lần nữa tổ chức chuyến Hành Hương Chiêm Bái Danh Lam Phật Giáo tại Nhật và Đại Hàn trong thời điểm đầu tháng Tư theo lời yêu cầu của nhiều Phật tử, ngõ hầu xuyên qua những danh lam Phật Giáo mà đoàn đến chiêm bái, đoàn còn được chiêm ngưỡng những cảnh trí đẹp tuyệt vời được tô điểm bởi hương sắc nhẹ nhàng của hoa Anh Đào.
08/02/2022(Xem: 7221)
Hai năm trước, khi tin Hòa Thượng Thích Minh Tâm viên tịch lan truyền khắp năm châu, ai ai cũng ngỡ ngàng thương tiếc. Hầu như các tự viện trên thế giới đều tổ chức lễ tưởng niệm tri ân Ngài. Tu Viện Quảng Đức cũng không ngoại lệ, buổi lễ truy niệm đã được tổ chức một cách trang nghiêm, trọng thể. Sau đó TT Thích Nguyên Tạng đã lên chương trình Hành Hương Âu Châu vào cuối tháng 7 năm 2015, với mục đích chính là tham dự lễ Đại Tường Tưởng Niệm HT Thích Minh Tâm, đồng thời dự lễ Khánh thành Chùa Khánh Anh. Phật tử TVQĐ thật hoan hỷ với tin này và đã cùng nhau lập ra kế hoạch tiết kiệm để tham dự chuyến Hành Hương Âu Châu.Thời gian hai năm tưởng là lâu, nhưng thoắt một cái ngày đi đã gần kề, mọi người nô nức chuẩn bị hành trang để lên đường. Phái đoàn Hành Hương có 83 người gồm:Melbourne: 38 người; Sydney: 21 người; Perth: 9 người;Adelaide: 5 người.
07/02/2022(Xem: 18292)
Kính đa tạ Thầy đã giới thiệu 14 lời vàng của HT Thích Trí Tịnh (1916-2014 ) một Bồ Tát thị hiện đã mang kho tàng kinh các đến với Phật Tử VN trong và ngoài nước nhưng cuối cùng di chúc để lại cho đời chỉ vỏn vẹn 14 lời vàng này lại là Kim Chỉ Nam cho những ai muốn tu tập giải thoát ( LÀM LÀNH-LÁNH DỮ-THƯƠNG NGƯỜI- THƯƠNG VẬT-ĂN CHAY-NIỆM PHẬT -TỤNG KINH ) và Bộ Toàn tập Kinh Hoa Nghiêm 4 quyển cũng như Ngũ Kinh Tịnh Độ mà Ngài đã thọ trì hằng ngày từ A lại da thức khởi phát.
24/01/2022(Xem: 5341)
Tuyển tập Hành Hương Tứ Đại Danh Sơn Trung Quốc 2007 do Tu Viện Quảng Đức tổ chức
19/01/2022(Xem: 5571)
Dân tộc Việt Nam học và hành theo giáo lý Phật thuyết trên dưới hai nghìn năm trước khi Pháp sư Huyền Trang quy Phật cũng trên sáu thế kỷ, tuy vậy cho đến nay chúng đệ tử Phật, xuất gia cũng như tại gia, biết đến công hạnh của Ngài rất ít, và cũng biết rất ít di sản Kinh Luận của Ngài cho Phật tử Việt nam học và hiểu giáo pháp của Đức Thế Tôn một cách chân chính để hành trì chân chính. Bản dịch Đại Đường Tây vực ký của Hòa Thượng Như Điển với sự đóng góp của Cư sĩ Nguyễn Minh Tiến bổ túc cho sự thiếu sót này. Từ những hiểu biết để thán phục, kính ngưỡng một Con Người vĩ đại, hãn hữu, trong lịch sử văn minh tiến bộ của nhân loại, một vị Cao Tăng thạc đức, với nghị lực phi thường, tín tâm bất hoại nơi giáo lý giải thoát, một thân đơn độc quyết vượt qua sa mạc nóng cháy mênh mông để tìm đến tận nguồn suối Thánh ngôn rồi thỉnh về cho dân tộc mình cùng thừa hưởng nguồn pháp lạc. Không chỉ cho dân tộc mình mà cho tất cả những ai mong cầu giải thoát chân chính.
04/01/2022(Xem: 6306)
Không hiểu sao mỗi khi nhớ về những sự kiện của năm 1963 lòng con bổng chùng lại, bồi hồi xúc động về quá khứ những năm đen tối xảy đến gia đình con và một niềm cảm xúc khó tả dâng lên...nhất là với giọng đọc của Thầy khi trình bày sơ lược tiểu sử Đức Ngài HT Thích Trí Quang ( một sưu tầm tài liệu tuyệt vời của Giảng Sư dựa trên “ Trí Quang tự truyện “ đã được đọc tại chùa Pháp Bảo ngày 12/11/2019 nhân buổi lễ tưởng niệm sự ra đi của bậc đại danh tăng HT Thích Trí Quang và khi online cho đến nay đã có hơn 45000 lượt xem). Và trước khi trình pháp lại những gì đã đươc nghe và đi sâu vào chi tiết bài giới thiệu Bộ Pháp Ảnh Lục cùng lời cáo bạch của chính Đức Ngài HT Thích Trí Quang về bộ sách này, kính trich đoạn vài dòng trong tiểu sử sơ lược của HT Thích Trí Quang do Thầy soạn thảo mà con tâm đắc nhất về;
04/01/2022(Xem: 5144)
Trên đất nước ta, rừng núi nào cũng có cọp, nhưng không phải vô cớ mà đâu đâu cũng truyền tụng CỌP KHÁNH HÒA, MA BÌNH THUẬN. Tỉnh Bình Thuận có nhiều ma hay không thì không rõ, nhưng tại tỉnh Khánh Hòa, xưa kia cọp rất nhiều. Điều đó, người xưa, nay đều có ghi chép lại. Trong sách Hoàng Việt Nhất Thống Dư Địa Chí (1) của Thượng Thư Bộ Binh Lê Quang Định soạn xong vào năm 1806 và dâng lên vua Gia Long (1802-1820), tổng cộng 10 quyển chép tay, trong đó quyển II, III và IV có tên là Phần Dịch Lộ, chép phần đường trạm, đường chính từ Kinh đô Huế đến các dinh trấn, gồm cả đường bộ lẫn đường thủy. Đoạn đường ghi chép về ĐƯỜNG TRẠM DINH BÌNH HÒA (2) phải qua 11 trạm dịch với đoạn đường bộ đo được 71.506 tầm (gần 132 km)
04/01/2022(Xem: 4157)
Ngoài tên “thường gọi” là Cọp, là Hổ, tiếng Hán Việt là Dần, cọp còn có tên là Khái, là Kễnh, Ba Cụt (cọp ba chân), Ba Ngoe (cọp ba móng), Ông Chằng hay Ông Kẹ, Ông Dài, Ông Thầy (cọp thành tinh). Dựa vào tiếng gầm của cọp, cọp còn có tên gọi là Hầm, là Hùm, dựa vào sắc màu của da là Gấm, là Mun ... Ở Nam Bộ cò gọi cọp là Ông Cả, vì sợ cọp quấy phá, lập miếu thờ, tôn cọp lên hàng Hương Cả là chức cao nhất trong Ban Hội Tề của làng xã Nam Bộ thời xưa. Cọp cũng được con người gọi lệch đi là Ông Ba Mươi. Con số ba mươi này có nhiều cách giải thích: - Cọp sống trung bình trong khoảng ba mươi năm. - Cọp đi ba mươi bước là quên hết mọi thù oán. - Xưa, triều đình đặt giải, ai giết được cọp thì được thưởng ba mươi đồng, một món tiền thưởng khá lớn hồi đó. - Tuy nhiên, cũng có thời, ai bắt, giết cọp phải bị phạt ba mươi roi, vì cho rằng cọp là tướng nhà Trời, sao dám xúc phạm (?). Ngày nay, cọp là loài vật quý hiếm, có trong sách Đỏ, ai giết, bắt loài thú này không những bị phạt tiền mà còn ở
30/12/2021(Xem: 5450)
Tối ngày 11/02 âm lịch (03/03/2012), vào lúc 10 giờ tối, lúc đó tôi niệm Phật ở dưới hai cái thất mà phía trên là phòng của Sư Ông. Khi khóa lễ vừa xong, bỗng nghe (thấy) tiếng của đầu gậy dọng xuống nền phát ra từ phòng của Sư Ông. Lúc đó tôi vội vàng chạy lên, vừa thấy tôi, Ông liền bảo: “Lấy cái đồng hồ để lên đầu giường cho Sư Ông và lấy cái bảng có bài Kệ Niệm Phật xuống” (trong phòng Sư Ông có treo cái bảng bài Kệ Niệm Phật). Khi lấy xuống Sư Ông liền chỉ vào hai câu: Niệm lực được tương tục, đúng nghĩa chấp trì danh, rồi Sư Ông liền chỉ vào mình mà ra hiệu, ý Sư Ông nói đã được đến đây, sau khi ngồi hồi lâu Sư Ông lên giường nghỉ tiếp.
25/12/2021(Xem: 3955)
Cảo San đường Tuệ Nguyên Đại Tông sư (고산당 혜원대종사, 杲山堂 慧元大宗師) sinh ngày 8 tháng 12 năm 1933 tại huyện Ulju, Ulsan, một thành phố nằm ở phía đông nam Hàn Quốc, giáp với biển Nhật Bản. Ngài vốn sinh trưởng trong tộc phả danh gia vọng tộc, phụ thân Họ Ngô (해주오씨, 海州吳氏), Haeju, Bắc Triều Tiên và tộc phả của mẫu thân họ Park (밀양박씨, 密陽朴氏), Miryang, Gyeongsangnam-do, Hàn Quốc. Năm lên 7 tuổi, Ngài được sự giáo huấn của người cha kính yêu tuyệt vời, cụ đã dạy các bộ sách Luận ngữ, Mạnh Tử, Thích Độ, Đại Học, Tứ Thư và học trường tiểu học phổ thông. Vào tháng 3 năm Ất Dậu (1945), khi được 13 tuổi, Bồ đề tâm khai phát để làm tiền đề cho Bát Nhã đơm bông, Ngài đảnh lễ Đại Thiền sư Đông San Tuệ Nhật (동산혜일대선사, 東山慧日大禪師, 1890-1965) cầu xin xuất gia tu học Phật pháp. Thật là “Đàm hoa nhất hiện” khi những sợi tóc não phiền rơi rụng theo từng nhát kéo đong đưa. Tháng 3 năm 1948, Ngài được Hòa thượng Bản sư truyền thụ giới Sa di tại Tổ đình Phạm Ngư Tự (범어사, 梵魚寺), Geumjeong-gu, Busan, Hàn Qu
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567