Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tiểu Truyện của HT. Thích Huyền-Tôn

05/12/201915:43(Xem: 3346)
Tiểu Truyện của HT. Thích Huyền-Tôn

ht thich huyen ton 4
Tiểu Truyện

của HT. Thích Huyền-Tôn

玄宗小傳

 
(Đây là bài Tự Thuật, nên 2 chữ Ht(trong bài) là người viết,
{Huyền Tôn} cũng là đạo hiệu. Còn 2 chữ HT lớn, Là để chỉ cho các HT đương thời. )

 

 

Đời sống Đạo của HT Huyền-tôn:

*Sanh: VL. 4807. Mậu-thìn (1928)

*6t, xuất-gia. Quy-Y, Pd Như-Kế. Giáp-tuất (1934).  

*13t, Thọ Sa-di, PhápTự Giải-Tích. Tân-Tị (1941).    

*20t, Tỳ-Kheo, Hiệu Huyền-Tôn. Mậu-tý (1948).

*43,  Thượng, Tọa. Chùa Pháp-vân, Tỉnh Gia Định Sai-gòn.

*66,  Hòa Thượng, Tại Hoa Kỳ.

 

Duyên lạ trong khi Sư-phụ cho Pháp Hiệu:

Sp! Con muốn pháp hiệu chữ gì ?

Đệ-tử Dạ, bạch Thầy, Nếu Thầy cho phép con được nói chữ con thích. Con muốn Thầy cho phép con viết chữ con thích lên giấy. Thầy cũng viết Hiệu thầy định cho, đem ra so mà giống nhau thì con đúng là đệ-tử của Phật, của Thầy! Nếu được như vậy, dù khó nhọc cỡ nào, con quyết vưng theo lời thầy dạy không dám làm sai! Không ngờ Bổn Sư vui vẻ chấp thuận.

Hai mảnh giấy chìa ra, Chữ 玄宗 (Huyền Tôn)  nằm rõ trên mặt giấy! Sư phụ cười, Thầy xem tánh tình, nên biết ông ưa chữ đó. Nghe thế, Sao lòng vừa mừng vừa lo sợ!

 

­

*42t, Thượng-Tọa. Kỷ-dậu (1969). HT. Trí-Thủ Tổng Vu Trưởng Hoằng-Pháp Triệu tập Tăng Ni,  Tấn Phong tại chùa Pháp Vân Gia-Định.

*66t, Hòa-Thượng. Quí-dậu. VL4872. (1993).

 

KHAI ĐỀ -Thiên Ấn. Thình Thình. Quốc nội Việt Nam.

 

*Sư Phụ trong Thiền phái Lâm Tế :

Tôn hiệu của Ngài là,

{ Sắc Tứ Tổ Đình Thiên Ấn Tự. Đệ Lục Tổ, Triều Đình Sắc Phong

Tước Vị “Tăng Cang” Đạo Hiệu Chơn Trung Đại lão Hoà Thượng }.

 

Thiên Ấn: Nơi vào Phật Đạo.

Sắc Tứ Thiên Ấn Tự, khai sơn đã hơn 324 năm. (Tính vào 2016 TL). Thời đó là Vua Lê-Hy-Tông, Chúa-Trịnh-Căn. VL. 4571 (1692). DoTổ Pháp-Hóa, dòng Thiền Lâm Tế, thời nhà Lê, chia tay với Tổ Minh-Hải (Chúc Thánh) từ Quảng Nam, vào Quảng Ngãi xây dựng Thiên Ấn, năm Giáp-tuất (1694) VL. 4573. (VN Vua Lê-Hy-Tông. Chúa Trịnh Căn. Năm thứ 19. )

 

Thanh Thanh Sơn, Viên Giác Tự: Do Đại Lão Hòa-Thượng Chơn-Trung khai Sơn. Năm Bính-dần (1926). VL4805. Bảo-Đại nguyên niên. [1]

Ngài là, bậc uyên thâm về Nho học, Lý giải về Du-Gìa và thâm sâu về Bộ Bảo-Tích, gia trì 62 bộ ấn chú mật giáo. Công hạnh sáng lập và tu bổ 6 ngôi Chùa: Viên-Giác, Bảo-Lâm, Quang-Lộc, Kim-Liên, Long-Sơn và Khánh-vân. Đệ-tử, Xuất gia gồm các Giáo phẩm: 20 Tỳ Khưu, 81 Sa Di. 14 Ni. Còn có 10 Thiện nam ở tu công-quả. Về tại-gia, Ưu-Bà-Tắc/Di -Khoản hơn, kém ước có ngàn đệ tử! Chùa Viên Giác, (Núi Thình Thình) mỗi kỳ Lễ Rằm Tháng Bảy, Tết, có từ 5 đến 7 ngàn đồng bào, tin Phật, lên Núi tham dự! Trong Chùa Liên tiếp nhiều khóa lễ, trống chuông không ngớt, Cơm nấu chảo lớn đổ ra đầy nong, (loại chảo nấu đường) canh rau Nồi bung. (độ, 100 người ăn) liên tiếp.. Ngoài ra, người buôn họ tổ chức cả hai mươi mấy gian hàng, loa ống, loa bin, lô tô, bài chòi, xóc xỉa, chụp hình, áo khăn, giương lược, giò chã, bánh bún…Đèn điện máy, điện bình, man-xông, sáng đầy cả trảng núi, suốt 3 đêm ngày. (1936 – 1940).

 

*Song Thân phụ mẫu:

Người, sinh năm Giáp Tuất, thời Vua Hoàng Triều Dực Đức Anh Hoàng Đế (Tự-Đức) thứ 27. VL-4753. (TL-1874). Tráng thời là Chiến binh Sơn-Phòng, võ quan, chức Phó Quản, Triều Vua Khởi Định trọng trách dẹp loạn dân mọi, miền thượng du trong mấy vùng sơn cước Kuntum, Đá vách, Ma Rạc, Buôn-mê-thuộc…. Sau 9 Năm binh vụ! Nhân duyên lúc hành quân, may gặp Kinh Nhân Quả, Thân phụ hồi hưu, tìm về nơi cửa Phật mong thoát vòng binh đao ác nghiệp.

 

Qua 10 năm dốc lòng tu niệm, trước 3 tháng tự biết ngày về của mình, nên bạch HT sư phụ, nhằm ngày rằm Thượng Nguyên năm Nhâm-ngọ rằng: “Con nghĩ cuối tháng tư nầy con không còn phần phước học hỏi lời giáo huấn của Sự Phụ nửa! Xin Sư phụ thương dạy Chú Như-Kế phải cẩn thận năm chú ấy 18 và 28 tuổi, chú ấy phải chí tâm tưởng Phật, còn không, khó lường tai nạn” Con xin đảnh lễ công ơn tiếp độ của Sư Phụ. [2].

 

Long Vị Thờ: Lâm Tế Chánh Tông, Tứ Thập Nhứt thế, Viên Giác Đường Thượng, thượng Như hạ Quí, Tự Giải Quyền, Hiệu Huyền-Thông, Tam nguyệt tiền tri viên tịch, Đại Sư Giác Linh. Ngày 30/04/năm nhâm ngọ VL4821 (1942).

 

*Mẫu Thân: -Người Làng Háo Lễ, Huyện Tuy Phước, Tỉnh Bình Định.

Vị Thờ: Thái-thị-Túc Pháp danh Như Chỉnh, Tự Giái Lý. Thập thiện giới. Nguyên sinh Nhâm-Thìn niên (1891) Thọ Ngũ thập tứ tuế. Vãng sanh ư Ất-Dậu (1945), Nhị nguyệt thập tam nhựt Linh Vị.

 

*PĐ. 2554 /VL4809. Canh ngọ (1930).

Tuổi bé Học Nho: ( chiếc vở quạ )

Vừa 3 tuổi, trước khi học Nho, Thân phụ đã đóng tập vở “quạ” viết từng chữ …và xen vào ABC… để cho tuổi bé dễ học về sau. trải qua 3 năm “Tam thiên tự” “Ngũ thiên tự” và Minh-Tâm, Gia huấn.

Đến 5 tuổi lớp học đóng cửa vì lão-sư già yếu. Ht ở Tại nhà, Phụ Thân dạy học hai Thời Công phu, và bộ luật Tì-Ni…Đêm trăng, còn dạy cho bài “Ngọc Trản, Song kiếm, Xung thiên đề đao, Nam trường quyền”. 

ht thich huyen ton (1)
ht thich huyen ton (2)ht thich huyen ton (3)ht thich huyen ton (4)ht thich huyen ton (5)ht thich huyen ton (6)ht thich huyen ton (7)ht thich huyen ton (8)ht thich huyen ton (9)ht thich huyen ton (10)ht thich huyen ton (11)ht thich huyen ton (12)ht thich huyen ton (13)ht thich huyen ton (14)ht thich huyen ton (15)ht thich huyen ton (16)ht thich huyen ton (17)ht thich huyen ton (18)ht thich huyen ton (19)ht thich huyen ton (20)ht thich huyen ton (21)
pdfTiểu Truyện của Hòa Thượng Thích Huyền Tôn__2019









Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/10/2010(Xem: 2087)
Một vị thương gia lập nghiệp từ tay trắng, sau kiếm được rất nhiều tiền nhưng vì buôn bán trong thời kinh tế không ổn định, khiến anh ta trở nên phá sản, nợ nần chồng chất. Nghĩ mãi không tìm ra cách giải quyết, anh ta bèn ra bờ sông tự tử. Vào lúc canh ba một đêm nọ, anh ta đến trước bờ sông, bỗng nhiên nhìn thấy một thiếu nữ đang ngồi khóc thảm thiết, anh bèn đến hỏi cô gái: - Có chuyện gì mà đêm hôm khuya khoắt cô ngồi khóc một mình ở đây?
16/10/2010(Xem: 3318)
Hàng ngàn năm trước tây lịch, khi thổ dân Dravidian còn ngự trị khắp lãnh thổ Ấn Độ cổ thời, vùng phía tây Hy Mã Lạp Sơn là lãnh địa của rắn. Vốn là vùng rừng núi bạc ngàn nằm trên nóc nhà thế giới, Hy Mã Lạp Sơn là nơi thâm u bí hiểm với sơn lam chướng khí trùng trùng và vô số loài thú dữ cư ngụ sẵn sàng lấy mạng người để làm thức ăn. Thời đó, thổ dân Dravidian không có đủ vũ khí hùng mạnh để chống cự với các loài mãnh thú và tự bảo vệ mình. Từng người vào rừng săn tìm thức ăn đã không thấy trở về. Độc địa nhất không phải chỉ là những hổ, cọp, gấu, beo nằm lồ lộ chờ mồi bên bờ suối, dưới gốc cây hay trong khe đá, mà ngay bên dưới lớp lá khô mục của đường rừng là những loài rắn nguy hiểm chực chờ bước chân người.
16/10/2010(Xem: 2671)
Trong thiền không có đầu đuôi, khúc chiết, lý luận. Nó đập vỡ lý luận. Đó là thế giới lý tưởng của câu thơ lớp ba mồ côi luận lý. Thế giới của những câu cuối lấc cấc, mẹ gà con vịt. Đừng bắt tôi giải thích; hãy lang thang với tôi trong câu cuối của dăm ba chuyện thiền nổi tiếng.
16/10/2010(Xem: 2819)
Trong đời, tôi đã thấy mặt trăng lần nào chưa? Nhìn trăng, tôi nhìn cả đời. Nhưng thấy trăng, tôi không dám nói chắc. Khi tôi nhìn trăng trước mắt, tôi nghĩ đến trăng nửa khuya loáng thoáng trên tàu lá chuối sau vườn cũ. Tôi nghĩ đến đèn trung thu lúc nhỏ. Tôi nghĩ đến cái chõng tre giữa sân trên đó, ngày xưa, tôi nằm nhìn mây bay. Nhìn trăng, tôi không thấy trăng. Chỉ thấy lá chuối, chõng tre. Thấy cả tôi với trẻ con hàng xóm nô đùa. Có lần tôi trốn tìm với chúng nó, bị lộ, tôi nhảy bừa vào bụi tre, bất ngờ có đứa con gái đã ngồi sẵn trong đó. Tôi sợ hoảng, toan vọt ra thì nó kéo tay tôi lại, ấn vai tôi xuống, cười đồng lõa. Trong loáng thoáng của cây lá, tôi thấy hai cái răng cửa của nó sáng ngời ánh trăng. Bây giờ, nhìn trăng non, tôi thấy cái miệng và hai cái răng. Tựa như hai cái răng của nó phát ánh sáng và in hình miệng nó lên bầu trời.
16/10/2010(Xem: 2180)
Ngày xưa, một nhà quan lang họ Cao có hai người con trai hơn nhau một tuổi và giống nhau như in, đến nỗi người ngoài không phân biệt được ai là anh, ai là em
16/10/2010(Xem: 2046)
Ngày xưa, vào hồi Tây Sơn khởi nghĩa, có một chàng trai người vùng Đồng Nai, có tài cả văn lẫn võ, đã vung gươm hưởng ứng sự bất bình của thiên hạ.
16/10/2010(Xem: 1865)
Ngày xửa... Ngày xưa... Có một cô bé rất giàu lòng yêu thương. Cô yêu bố mẹ mình, chị mình đã đành, cô còn yêu cả bà con quanh xóm...
15/10/2010(Xem: 2259)
Một danh tướng về già muốn tặng thanh kiếm báu của mình cho một tướng quân ở xa. Ông giao trọng trách đó cho một gia nhân, cũng là một tay kiếm xuất chúng. Cẩn thận như vậy, ông vẫn không yên lòng, nghĩ rằng kiếm sĩ này chưa chắc đã đủ chín chắn để giữ kiếm không bị cướp dọc đường. Thanh kiếm không những quý về chất thép mà còn quý vì chuôi kiếm có nạm vàng và ngọc vua ban.
13/10/2010(Xem: 1707)
Có hai vợ chồng một ông già tên là Dã Tràng. Trong vườn họ có một hang rắn. Thường ngày làm cỏ gần đấy, ông già vẫn thấy có một cặp vợ chồng rắn...
13/10/2010(Xem: 3290)
Vào Thứ Sáu, ngày 8 tháng 10 năm 2010, Ủy Ban Giải Nobel Hòa Bình Na Uy đã công bố giải Nobel Hòa Bình năm 2010 được trao cho Lưu Hiểu Ba. Lưu Hiểu Ba, sinh năm 1955 tại thủ phủ Trường Xuân của tỉnh Cát Lâm ở đông bắc Trung Quốc, là nhà tranh đấu bất bạo động cho tự do, dân chủ và nhân quyền tại Trung Quốc. Ông đã từng tham gia phong trào sinh viên đấu tranh trong biến cố Thiên An Môn năm 1989 và sau đó liên tục bị sách nhiễu, quản chế tại gia và tù tội. Ngày 8 tháng 12 năm 2008, ông đã bị bắt vì cùng một số nhà tranh đấu dân chủ và nhân quyền Trung Quốc công bố Hiến Chương 2008 đòi xóa bỏ chế độ cai trị độc đảng để tiến tới một xã hội dân chủ cho Trung Quốc. Hiến Chương 2008 cho đến nay đã có hơn 8,500 người tham gia ký tên. Vì Hiến Chương 2008, Lưu Hiểu Ba đã bị chính quyền cộng sản Trung Quốc kết án 11 năm tù. Hiện ông vẫn còn ngồi tù ở Liễu Ninh, Trung Quốc.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567