Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bố Thí Đầu (truyện thơ)

03/05/201909:15(Xem: 5226)
Bố Thí Đầu (truyện thơ)


Buddha_15

BỐ THÍ ĐẦU


Thuở xưa nước Tỳ-xá-ly,
Đất thơm in dấu từ bi Phật-đà.
Có rừng cổ thụ ta-la,
Một chiều chim rộn trong hoa hát mừng.
Tay Phật cầm nhánh lan rừng
Quay sang phía hữu bảo rằng “A-nan!
Đạo ta như khói chiên đàn,
Mười phương pháp giới tỉnh hàng nhân thiên.
Gỗ tàn cho khói trầm lên,
Thế gian gieo một thiện duyên cũng là.
Thân này nào khác chi hoa,
Đạo như cây quý nở ra bốn mùa.
Hương trời giữa khói sương đưa,
Hoa kia rồi cũng một mùa như hoa.
Đây xe pháp giữa Ta-bà,
Giờ sao mưa gió nghe ra rã rời.
Dù Như Lai trụ muôn đời
Hay là một kiếp diệu vời khác chi.”
A-nan chẳng hiểu ý gì,
Phật truyền đến gốc cây kia trầm từ.
Bấy giờ trong cõi không hư,
Mây đen cuồn cuộn tựa như biển trùng.
Hiện ra ma vương Ba-tuần,
Dưới hoa quì lạy muôn phần kính tôn,
Rồi thưa “trong cõi bụi vàng,
Thế tôn đã độ vô vàn nhân thiên.
Bến mê đã lặng sóng phiền,
Sen thơm nở giữa khởi duyên trùng trùng.
Dù cho vô tận vô cùng,
Đạo ngài như vẳng hồng chung tiếng vàng.
Giờ xin thỉnh nhập Niết-bàn.”
Phật đưa một nắm bụi tàn trên tay.
Bụi này, hay cõi đất đây,
Đâu nhiều, đâu ít hỏi ngay Ba-tuần.
Ma rằng “chút gợn phù vân,
Cõi này đất hẳn muôn phần nhiều hơn.”
Nhẹ nhàng Phật nối lời luôn:
6.200.  “Vậy người mê muội trong cơn khác nào.
Luân hồi khổ ải lao đao,
Trôi lăn bể dục còn bao nhiêu người.”
Ma rằng “thiện ác mây trôi,
Ngộ mê như ngọn sóng dời biển đêm.”
Phật cười nở nụ nhiệm huyền,
Khen ma “ngươi chứng đạo hiền mốt mai.
Còn ta ba tháng nữa thôi,
Niết-bàn sẽ nhập như lời ngươi mong.”
Tạ lui, chúa quỉ ghi lòng
Lời ban di chúc, trần hồng khó hay.
A-nan thiếp ngủ giấc ngày,
Nằm mơ thấy một bóng cây rợp trời.
Trái hoa năm sắc tuyệt vời,
Bỗng dưng cây hóa mặt trời chói chang.
Mười phương gội ánh mây vàng,
Rừng cây nội cỏ nở ngàn hoa thơm.
A-nan tỉnh giấc mộng vương,
Nghĩ rằng bóng mát y nương bấy ngày.
Rồi ra cây hóa mặt trời,
Phương phương hoa cỏ hết nơi an bình.
Là khi mình phải cậy mình,
Đuốc hồng soi giữa vô minh bóng dày.
Thôi, ta sắp chẳng còn Thầy,
Dựa nương đức độ như ngày xa xưa.
Nghĩ rồi nước mắt như mưa,
Vội vàng tìm đến trình thưa Phật từ
Những điều vừa thấy trong mơ,
Khiến lòng một tín muời ngờ lắm thay.
Phật rằng “sinh, diệt xưa nay,
Ba tuần trăng nữa đến ngày đó thôi.”
Nghe xong Tăng chúng rụng rời,
Bóng cây đã hóa mặt trời tự tâm.
Phật khuyên “pháp giới vô thường,
Như Lai đã chỉ con đường vào ra.
Có ta hay chẳng có ta,
Tự tâm thanh tịnh vẫn là chốn nương.
Giới trai là của tư lương,
Trí bi là cửa chân thường tiến tu.
Vượt trăm ải mộng Diêm-phù,
Bừng soi trí huệ cho dù không ta.
Dù ta thường trụ Ta-bà,
Mải mê tham chấp cũng là như không.
Việc nên ta đã làm xong,
Lời nên ta cũng tận lòng mở khai.
Chân tâm thường trụ Như Lai,
Không đi, không lại, không ngoài, không trong.”
Ngài Xá-lợi-phất than rằng
“Ôi thôi! Mắt sáng thường hằng thế gian.
Bây giờ ngài nhập Niết-bàn,
6.250.  Chúng sinh như thể con đàn cậy ai.
Con xin diệt trước Như Lai,
Chẳng đành tâm thấy bóng ngài hóa thân.”
Nói rồi quanh Phật ba lần,
Quì nâng chén ngọc để lên đỉnh đầu.
Trang nghiêm từ biệt giây lâu,
Trở ra hạc nội rầu rầu cỏ xanh.
Ông tìm về La-duyệt thành,
Chốn quê, nở đóa hoa lành nơi đây.
Tin ông nhập diệt lan ngay,
Vua A-xà-thế lòng đầy xót xa.
Vội vàng lên thẳng loan xa
Cùng đoàn hộ giá tới nhà tranh quê.
Vua than “ngài nỡ vội về,
Lấy ai đem đạo Bồ-đề hóa khai!”
Rồi vua lệ nóng tuôn dài,
Khiến Xá-lợi-phất thấy bùi ngùi thương.
Ông khuyên “muôn vật vô thường,
Sớm làm mây nổi chiều vương mưa dài,
Xá gì sinh tử cõi đời,
Ngại gì một nắm xương dời dưới khe.
Thiện duyên vun cội Bồ-đề,
Kiếp như cát nổi đi về độ tha.
Thiện căn người lại gặp ta,
Pháp duyên hóa độ Ta-bà chuyển mê.”
Ngoài kia thiện tín dồn về,
Tin thầy sắp diệt não nề lòng ai.
Than rằng “ngọc sáng trời người,
Ôi gươm lửa cắt ba đời vô minh.
Ôi sen nở giữa đầm xanh,
Ôi chim giục sáng trên cành đông ba.
Nhờ thầy đại chúng an hòa
Bấy lâu, giờ lại xót xa tiễn người.
Đuốc trầm nghi ngút ùn hơi,
Trăng đêm man mác mây dời tàn sao.
Ông nhập thiền giữa đài cao,
Nội xa cỏ quý rì rào lá nghiêng.
Người lên từng cõi trời thiền,
Như chim tiên hạc qua miền tuyết hoa.
Trên cao mây hiện sắc tòa.
Sao đan tàn ngọc, khánh hòa gió bay.
Lời tiên vọng giữa trời mây,
Ca tụng hiền giả đức dày trí cao.
Ứng cơ chuyển tiếp pháp mầu,
Diệu thanh như thế suối mau mau dồn.
Biện tài như nước trời tuôn,
Giới như đại tướng phá cường địch mê.
Theo Như Lai mở Bồ-đề,
Pháp luân như ngọc pha lê tuyệt vời.
Chư tiên tán tụng dứt lời,
6.300.  Nhục thân La-hán vẫn ngồi an nhiên.
Giác linh thăng hóa cõi trên,
Trong khi đệ tử dưới miền nhớ thương.
Đây yên lặng, nụ cười buồn,
Kia ngồi than khóc bên đường như mưa.
Lại nhiều kẻ đứng trầm tư,
Tay dâng hoa trắng tựa bờ xuân mai.
Thôn trong cho đến thành ngoài,
Chim lồng cá chậu được người phóng sinh.
Phương đông vừa dựng bình minh,
Một làn mây đỏ hóa hình cỗ xe.
Từ xa đem lửa bay về
Kết thành tháp lửa bốn bề khói thơm.
Tiếng kinh thơ tụng bên đường,
Hoa như mưa lấp than hường dần tan.
Hiện ra xá-lợi hồng vàng,
Tựa kho ngọc báu bên đàng tỏa soi.
Lại nghe trên đỉnh từng trời,
Tiếng đàn ảo diệu chen lời hát ca.
Giây lâu, trời lặng như xưa,
Vua A-xà-thế bấy giờ bình thân.
Nhặt, chia xá-lợi nhiều phần,
Truyền đem xây cất mấy lần tháp cao.
Lại truyền định những nơi nào,
Dựng bia, khắc chữ, chép sao công người.
Thả tù, bố thí nơi nơi,
Gọi là tưởng niệm cuộc đời thánh Tăng.
Chuyện này do một khách thương,
Đem về bạch Phật tại rừng ta-la.
A-nan khi đó nghe qua,
Nhớ thương hiền hữu lệ sa vắn dài.
Thế tôn trông thấy mỉm cười,
Giơ tay vẫy đến bên người bảo ban
Rằng “thánh Tăng nhập Niết-bàn,
Pháp thân còn mãi vô vàn thiên thu.
Dù cho hoa cỏ Diêm-phù,
Dù cho khe suối sương mù gió mây.
Pháp thân còn đó còn đây,
Giới hương giải thoát tròn đầy nguyệt trong.
Nghìn xưa nơi cõi bụi hồng,
Phất từng diệt trước chẳng lòng nhìn ta.”
A-nan vội chắp tay hoa
Dưới thềm thỉnh pháp duyên là trước sau.
Phật kể “xưa kiếp Diêm châu,
Nguyệt Quang vua nọ đức giàu trí bi.
Lúa thơm muôn dặm xanh rì,
Thành cung một cõi lưu ly ngọc ngà.
Nọ lầu vàng rực mây tà,
Kia đền hồng ngọc chói lòa nắng mai.
Muôn muôn tụ lạc an vui,
6.350.  Sông biêng biếc lụa vọng lời đò ca.
Một hôm vua ngự thưởng hoa,
Nghĩ rằng đời khác như là xuân thu.
Nghiệp xưa tích đức hiền tu,
Kiếp này quả báo cho dù tốt tươi.
Phúc duyên cảm đến người người,
Núi sông thành quách ngời ngời vàng châu.
Bây giờ cầu chút duyên sau,
Mở kho bố thí muôn lầu gấm hoa.
Dù cho muôn cõi muôn nhà,
Dù cho khắp chốn Ta-bà ngại chi.
Tin vua bố thí loan đi,
Nhân dân khắp cõi tìm về tận nơi.
Sớm hôm lần lượt bao người,
Xin tiền, xin vật, như lời hứa ban.
Tiếng truyền oai đức Nguyệt Quang,
Khiến cho muôn nước lân bang nể vì.
Phương Tây có vị vua kia,
Ghét ghen là thói so bì xưa nay.
Càng nghe lòng giận càng đầy,
Liền bàn mật với nhóm bầy tôi thân.
Hỏi ai chước quỉ mưu thần,
Hạ Nguyệt Quang được một lần thị oai.
Có người giáo sĩ mỉm cười
Nói “xin lấy hẳn đầu người lập công.”
Vua nghe như mở tấm lòng,
Hẹn cho hai tháng phải xong việc này.
Việc thành hứa gả con đây,
Chung nhau quyền lợi đủ đầy trị dân.
Vui mừng, giáo sĩ lui chân,
Về non cầu đảo quỉ thần giúp tay.
Hành trang sửa soạn đó đây,
Voi chăng màn gấm đợi ngày kéo sang.
Bấy giờ vua nước Nguyệt Quang,
Nào là chớp giật nào hàng tinh rơi.
Khói sương ùn mấy ngày trời,
Rồi là sao chổi sáng ngời hiện ra.
Quạ đen bay lại bay qua,
Lại thêm dã thú gầm như động rừng.
Hết dân nằm mộng bất tường,
Trống rồng bị thủng, lọng vàng ngả nghiêng.
Lại vua trong giấc nửa đêm,
Nghe như xào xạc ngoài thềm lá rơi.
Trông ra: quỉ xám đương cười,
Tay cầm vương miện trỏ nơi ngai rồng.
Điềm chi, khiến mộng buồn lòng,
Bách quan nghe chuyện vô cùng xốn xang.
Đến hôm, trước cửa thành vàng,
Có người giáo sĩ lân bang xin vào
Tâu “ngài phát nguyện thanh cao,
6.400.  Đạo tâm tỏa sáng khác nào thái dương.
Nên tôi từ chốn Tây phương,
Vượt trăm dặm núi đỉnh sương hướng về.
Nghe ngài theo hạnh Bồ-đề,
Bao phen bố thí chẳng hề tiếc đâu.
Nhưng dù ban phát ngọc châu,
Cũng là vật dụng phải đâu khác người.
Dám cho đến máu thịt rơi,
Dám đem mạng sống cứu đời mới cao.
Nên tôi chẳng ngại xin vào
Giúp vua tự thắng, nêu cao gương hiền.
Nhưng vì rất khó, cho nên
Ngài có nhận trước mới xin giãi bày.”
Đức vua hoan hỉ chịu ngay,
Dù quên thân mạng lòng này ngại đâu.
Nghe xong đạo sĩ khấu đầu,
Dưới thềm khúm núm thêm câu dối lừa:
“Mẹ tôi nằm bệnh từ xưa,
Quỉ ma hành hạ thân già đớn đau.
Pháp sư truyền dạy đã lâu,
Bệnh này chữa phải có đầu đế vương.
Như ngài phúc tuệ đôi đường,
Thì bộ óc chính là phương thuốc thần.
Nói ra, thực rất ngại ngần,
Dẫu rằng đã được minh quân rộng lòng.
Phần tôi kính trọng ngai rồng,
Thay trời trị nước vô cùng lớn lao.
Trần gian dễ thấy ai nào,
Đã ngôi báu, lại đức cao như ngài.
Nhưng phần xót mẫu thân tôi,
Tuổi xuân đã chịu suốt đời gian lao.
Đến già lại bệnh khổ sao,
Nghe mẹ rên xiết như bào lòng con.
Nên liền xin lượng núi non,
Bằng không, xin chịu nát mòn cũng cam.”
Vua rằng “ngươi cứ yên tâm,
Đã lời hứa trước, tấm thân chẳng nề.
Đầu ta, ngươi sẽ đem về
Chữa bệnh ma quỉ, trọn bề dưỡng sinh.”
Triều thần sửng sốt khiếp kinh:
Vua bố thí cả mạng mình nữa sao!
Người băng lên chín bệ cao:
Xin ngài ở lại ngôi cao dân nhờ.
Người thì lý luận trình thưa,
Đem tài hùng biện khuyên vua đủ điều.
Nhưng lòng son vẫn không xiêu:
“Các khanh thôi chớ buồn nhiều vì ta.
Phải đem đức trải gần xa,
Không còn vị kỷ mới là độ sinh.
Nhân gian cần có gương lành,
Ta xin treo để thức tình người sau.
Thân này, vì muốn giữ lâu,
Thì trăm năm cũng qua cầu mà thôi.
Điện vàng đừng sợ không ngai,
Con ta lại sẽ nối ngôi trị vì.
Có chư khanh đó, lo gì,
Việc dân việc nước mọi bề vẫn yên.”
Đại thần có vị tiến lên
Rầu rầu đứng trước vua hiền lạy thưa:
“Thánh hoàng, hạnh nguyện độ tha,
Cắt đầu bố thí để mà khuyến dân.
Xin tha lỗi kẻ tôi thần
Chẳng đành ngó thấy mình rồng máu hoen.”
Nói rồi tự móc trái tim,
Bàn tay máu nhuộm dâng lên ngai vàng.
Trăm quan xiết đỗi kinh hoàng,
Dẫu là gan sắt cũng hàng lệ rơi.
Còn vua, di chúc hẳn hoi,
Lại thêm căn dặn đủ lời trước sau.
Rồi cầm gươm tự cắt đầu
Trao cho giáo sĩ vẫn chầu một bên.
Người này vội vã lên yên
Trốn đi như thể một tên tội tù.
Bấy giờ khắp cõi Diêm-phù,
Đất bằng chuyển động vụt vù gió bay.
Thiên cung mấy đỉnh từng trời,
Kim thân Bồ-tát rạng ngời chiếu soi.
Vội vàng thiên chúng nơi nơi
Trải hoa mười cõi dâng người đại bi.
Mưa thành cát ngọc lưu ly,
Gió thành diệu nhạc muôn vì sao nghiêng.
Hương trầm từ đất bốc lên,
Chim tha mây trải khắp miền hót ca.
Thần dân trồng mấy dặm hoa,
Nguyện cho thần thức vua hòa đại tâm.
Hóa siêu trong cõi mê lầm,
Như hoa nở giữa sơn lâm mấy trùng.
Trong khi giáo sĩ băng rừng,
Đem đầu vua, trốn trên lưng ngựa dài.
Phóng đi nào biết đêm ngày,
Lạ sao đầu nọ tỏa hoài hương thơm.
Khi về tới được biên cương,
Kiệu son sẵn đợi thẳng đường tiến kinh.
Tin loan khắp chốn khắp thành,
Khiến dân nước đó giật mình ngẩn ngơ.
Bấy giờ ở chốn cung vua,
Mừng như thắng trận treo cờ kết bông.
Dựng đài cao giữa chợ đông
Để bêu thủ cấp cho công chúng nhìn.
Sớm mai, vừa nhạt bóng đêm,
6.500.  Dân từ khắp nước đã chen nhau về.
Nóng xem cho được đầu kia,
Của người hiền đức bốn bề tiếng vang.
Trên đài cao, dưới nắng vàng,
Hộp sơn vừa mở thoảng làn hương bay.
Nhưng sao thật lạ lùng thay,
Đầu vừa khỏi hộp, hóa ngay sen hường.
Hào quang chiếu rực mười phương,
Gió thơm man mác, mây buông tàn đào.
Lại nghe đàn sáo ngọt ngào,
Âm thanh nhẹ tự trời cao thoảng về.
Người người khai ngộ lìa mê,
Chắp tay cung kính, bốn bề lâng lâng.
Nguyệt Quang xưa bực minh quân,
Đức dày nhiều kiếp tiền thân góp thành.
Vị quan tự móc tim mình
Là Xá-lợi-phất tu hành kiếp nay.
Suốt trong sáu cõi đổi thay,
Bao lần thị hiện đủ đầy cúng ta.
Dấu chân in khắp Ta-bà,
Bây giờ rũ nắm trần sa giữa dòng.
Như chim thần vút qua sông,
Tiếng kêu khiến nở vừng hồng đỉnh xa.”
Thuyết xong Phật dạo đường hoa,
Bước yên dưới liễu la đà nắng bay.


Phạm Thiên Thư
Thi hoá tư tưởng Dàmamùka Nidàna Sùtra (Kinh Hiền Ngu)
Trần thị Tuệ Mai nhuận sắc.
***

Nguồn: Hội hoa đàm
Cơ sở Văn Chương ấn hành, mùa Hạ năm Quý Sửu 1973, Sài Gòn, Việt Nam.
 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
18/10/2014(Xem: 43826)
Uống trà là một nét đẹp văn hóa truyền thống của Á Đông theo phương châm“Bình minh nhất trản trà". Cách đây hàng ngàn năm, con người đã biết đến trà như một loại nước uống mang lại sự sảng khoái, thanh khiết cho tinh thần, là cách để khai tâm mở trí. Người ta xem chén trà là đầu câu chuyện, là gợi mở tâm linh, là giao thoa văn hóa và kết nối lòng người.
10/10/2014(Xem: 4407)
Từ lâu, người ta tin rằng có một cái “bản ngã” thường hằng, bất biến, tồn tại độc lập trong vạn pháp. Trước sự nhầm lẫn tai hại đó, Phật Thích Ca bèn nói thuyết “Vô ngã” để chúng sinh phá chấp. “Vô ngã” không phải không có gì hết mà là không có tự tánh, không có tự thể riêng biệt. Đây là một trong ba Pháp ấn trong hệ thống giáo lý của Phật giáo (hai pháp ấn kia là Khổ và Vô thường). Gọi là Pháp ấn có nghĩa là trong tám mươi bốn ngàn pháp môn của đạo Phật nếu có pháp môn nào không có một trong ba khái niệm Khổ, Vô thường và Vô ngã thì không phải giáo lý đạo Phật.
03/10/2014(Xem: 4349)
Học sinh thường cho rằng, các thầy cô chỉ nhớ tên học sinh giỏi, học sinh đẹp hoặc hoạt động hiệu đoàn... Cho nên mỗi lần nếu tôi gặp lại một em học sinh không có gì xuất sắc ngày xưa mà tôi còn nhớ tên, thì đó là một niềm vui to lớn của em là được thầy cô còn nhớ mặt và nhớ tên của mình. Sau khi cuộc chiến lan tràn trên quê hương thầy trò phân tán, tôi đi cùng nam cực bắc, đi xa nửa trái địa cầu, rải rác khắp nơi, tôi vẫn gặp lại những em học sinh Đồng Khánh cũ. Và nhờ cố gắng nhớ mặt, nhớ tên các em, nên hầu như ở đâu tôi cũng gieo được chút niềm vui cho những người đang phập phồng chờ được gọi đích danh sau một câu mở đầu công thức: „Cô còn nhớ em không?“. Những con người ấy, những học sinh Đồng Khánh tha phương - xa trường, xa thầy bạn cũ đã xưa rất xưa, mà chính bản thân khi soi gương cũng không còn bắt được hình bóng mình ngày ấy..., bất giác còn được gọi tên, còn được nhớ, còn được nhắc nhở đến bao kỷ niệm của một thời. Ôi! Vui biết bao nhiêu, ấm áp ngọt ngào biết bao nhiêu
02/10/2014(Xem: 4269)
Ra đến bến xe trời hãy còn khuya khoắt, trông cảnh nhộn nhịp ì xèo rộn lên từ những gian hàng ăn uống ở một góc gần bên, và tiếng nói cười lăng xăng của hành khách đi lại lẫn với tiếng những người bán hàng rong mời mọc. Nhìn sang quầy bán vé bây giờ không giống như những ngày tháng sau năm 1975, bề mặt thoáng mát rộng rãi trang trí bởi những bảng quảng cáo, những hoa văn sắc màu, những hàng ghế để khách ngồi chờ trông lịch sự. Khách mua vé rất nhanh khỏe hơn xưa, không còn cảnh chen lấn xếp hàng cả buổi trời như trước đây, lại có thêm nhiều loại xe phục vụ trên các tuyến, việc nầy còn tùy thuộc vào túi tiền của hành khách, ai có tiền nhiều thì đi loại xe chất lượng cao, còn ai ít tiền thì đi loại xe bình dân hơn. Nói vậy chứ còn khá hơn trước Đây, bởi ba chiếc xe car cũ kỹ hoặc xe chạy bằng than đá trên những tuyến Miền Đông, Miền Tây vào những năm 1975 - 1990.
24/09/2014(Xem: 6376)
Xưa có một người quyết tâm học đạo, theo một vị thiền sư sống trong một cái cốc nhỏ, sống đạm bạc, quyết chí tu hành. Một này kia, có công việc, vị thiền sư phải đi xa, dặn đệ tử ở lại phải lo chăm chỉ tu hành, luôn luôn giữ lối sống đạm bạc và tâm hồn thanh tịnh. Người đệ tử này chỉ có một chiếc khố che thân. Đêm tới khi ngủ, máng khố trên vách, thường bị chuột chui ra cắn rách, phải xin bá tánh chút vải thừa thay khố nhiều lần.
03/09/2014(Xem: 4669)
Lúc đó tôi được 13 tuổi. Trước đó một năm gia đình tôi đã chuyển từ Bắc Florida đến miền Nam California. Tôi dễ hận thù khi vừa đến tuổi vị thành niên. Tôi rất nóng nảy và hay cãi lại đối với bất cứ chuyện gì dù nhỏ mà ba mẹ đề cập tới, đặc biệt là nếu nó liên quan đến tôi. Cũng giống như nhiều đứa trẻ lứa tuổi thiếu niên, tôi khó chấp nhận bất cứ điều gì đi ngược lại với quan điểm của mình về thế giới chung quanh. Một đứa bé “thông minh không cần dạy bảo”. Tôi phản đối bất cứ biểu lộ nào của tình thương. Thật sự, tôi dễ giận dữ khi đề cập đến cái từ “thương yêu”.
26/08/2014(Xem: 4084)
Ở ven bờ bể Mễ Tây Cơ, có một làng nhỏ chuyên sống nghề đánh cá, một chiếc thuyền con lướt sóng nhẹ vào bờ, đem về vài con cá khá to. Một ông khách Mỹ đứng trên bờ, khen ngợi nghề đánh cá tài giỏi của anh chàng Mễ Tây Cơ và hỏi anh ta mất bao nhiêu thì giờ mới được chừng đó cá. _ “ Không lâu lắm đâu !” anh Mễ Tây Cơ trả lời.
17/08/2014(Xem: 25156)
Đại Sư tên là Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sinh ra ngài nhằm giờ tý, ngày mùng tám tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12. Khi ấy, hào quang từ nhà ngài chiếu sáng lên không trung, mùi hương lạ tỏa lan khắp nhà. Đến tảng sáng, có hai vị tăng lạ mặt đến thăm, bảo cha ngài rằng: “Khuya nay ông vừa sinh quý tử, chúng tôi đến đây là để đặt tên cho cháu bé. Ông nên đặt trước là chữ Huệ, sau là chữ Năng.”
17/08/2014(Xem: 24138)
Nhân quả báo ứng là một tập truyện của Trung Quốc, có vẽ tranh minh họa rất sinh động. Tập truyện này trước do ngài Văn Xương Đế Quân đời nhà Tấn sưu tập những truyện nói về nhân quả và sự báo ứng qua nhiều triều đại ở Trung Quốc.
17/08/2014(Xem: 21267)
Nhân quả là định luật căn bản xuyên suốt quá trình thành trụ hoại diệt của tất cả chúng sinh từ đời này sang đời khác, cho đến vũ trụ, vạn vật cũng không phải tuần hành, biến dịch một cách ngẫu nhiên, vô lí, mà luôn tuân theo định luật nhân quả. Định luật này không do một đấng thần linh nào, xã hội nào đặt ra cả, mà là luật tự nhiên, âm thầm, lặng lẽ, nhưng luôn đúng đắn, chính xác, hiệu quả vô cùng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]