Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tất cả đều là nhân duyên...

01/05/201906:58(Xem: 4052)
Tất cả đều là nhân duyên...

Nguyen Khoa Tuan (7)


Tất  cả đều là nhân duyên...


Hôm nay là ngày 30.04.2019, ai trong chúng ta không nhớ đến ngày 30.04.75 cái ngày đen tối nhất trong lịch sử đất nước, ngày mà mọi người hoảng loạn vì tỵ nạn cộng sản, ai cũng tìm đường ra đi bằng mọi cách nhất là những người đã sống với cộng sản sau ngày Cộng sản tràn về Hà Nội, tuyên bố Độc Lập, thành lập nước Việt Nam Dân Chủ Cọng Hòa, cái mỹ từ đó nghe quá đẹp đẽ nhưng đằng sau đó lại là những áp bức bất công đầy dẫy, để san bằng giai cấp cộng sản đã không từ cái gì cả, mọi người tố cáo nhau để dành quyền lợi, cả xã hội đảo lộn vì họ chỉ tin vào lý thuyết duy vật, vô thần và trong đầu mọi người Đáng Cộng sản chỉ nhồi sọ một thứ ảo tưởng xa vời là tiến lên một xã hội công bằng, đẹp đẽ, mọi người đều có quyền lợi ngang nhau, không ai được phép giàu hơn ai cả nên họ tẩy não mọi người nhất là tầng lớp tiểu tư sản mà họ cho là luôn ăn trên ngồi trước mọi người, cũng vì vậy mà có cuộc di tản 1954 từ Bắc vào Nam của những người dân Miền Bắc.

Tưởng là thoát ách Cộng sản và sống yên bình ở Miền Nam nhưng rồi 1975, chính quyền Việt Nam Cộng Hòa sụp đổ, mọi người trốn chạy bất kể bằng cách gì, xã hội mất kiểm soát và trong cuộc chạy trốn đó dĩ nhiên là có những người bỏ thây ngoài biển cả, vợ lạc chồng, con lạc cha mẹ.
Tôi ở vào thời điểm đó, và dĩ nhiên theo lời Mạ tôi thúc dục cũng đi cùng Ông Anh cả vào trại gia binh Tân Sơn Nhất ở một đêm với hy vọng đi ké chuyến ra đi của gia đình Bà Dì, do hai người một là con ruột, một là rể đều là phi công lái máy bay trong quân lực VNCH và làm việc ở Tân Sơn Nhất.  

Nhưng mọi toan tính đều tan vỡ khi Ba tôi làm dử bắt Mạ tôi nói Ông Anh cả vào đón tôi về chưa đầy một ngày sau đó, vì Ông không muốn tôi ra đi khi biết chắc là anh cả tôi sẽ ra đi với Phi Đoàn F5 của anh ấy.
Lúc đó tôi chưa biết gì về cộng sản cả mặc dù hồi chiến cuộc Mậu Thân năm 1968 tôi đã sống vài ngày với tụi nó, nhưng rồi cũng chỉ thấp thoáng lơ mơ để hiểu rõ ra là họ đối nghịch với thế giới tự do thôi.
Nếu lúc đó ngày 30.04 mà Ba tôi không phản đối để tôi ra đi thì có lẽ cuộc đời của tôi sẽ rẽ sang một hướng khác...

Tuy vậy bây giờ ngồi đây nghĩ lại tôi vẫn thấy mình đã vào đời một cách dũng mãnh sau 30.04.1975, mình đã tự lập, bây giờ nhớ lại những ngày tháng đó tôi hoàn toàn không hiểu được sức mạnh nào đã giúp đỡ mình vượt qua tất cả những khó khăn thời đó từ cuộc sống cho đến những lúc bị bắt buột đi đánh tư sản mại bản trong Chợ Lợn tự mình phải nghĩ ra cách liên lạc về nhà, để Ba Mạ yên tâm là mình không sao cả...
Bây giờ hiểu rõ về thuyết Nhân Duyên của Đạo Phật tôi mới ngộ ra rằng mọi sự đều bắt đầu từ Nhân Duyên, trong sự khổ đau, khó khăn trong đời sống vì mình không làm điều gì sai trái với mọi người nên luôn luôn có những nhân duyên đưa đẩy mình mình gặp được người tốt ( Quý Nhân) giúp đỡ, nếu lúc đi đánh tư sản mại bản đó tôi không gặp được các chị nấu bếp tốt bụng lôi đi, tôi đã đi theo cái đám Cán Bộ bắt Tư Sản Mại Bản, tịch thu tài sản của người Hoa tạo nên cái nghiệp xấu mà có lẽ bây giờ phải gặt lấy hậu quả khôn lường.
..
Rồi thì cả những lúc trở về gia đình chạy đôn chạy đáo đi mua kem bán ở Trường Học Tân Định, cùng Mạ tôi và các em dọn hàng bán mỗi ngày, chứng kiến những thăng trầm trôi nổi của cả gia đình.
Và rồi trải qua những ngày tháng đi làm công nhân viên, cực không thể tả đã rèn luyện cho tôi sự dẻo dai chịu đựng, lòng từ bi không phân biệt ai cả, vì vào đó mình mới thấy những người nghèo khổ nhưng rất tốt bụng, luôn giúp đỡ mình, nếm đủ thứ mùi vị cuộc sống như say xỉn vì uống rượu ăn mừng mỗi lần Tết Nhất hay tổng kết cuối năm, và rồi đến với đam mê ca hát.
Cuộc sống lúc đó quá cực khổ nhưng cũng có những lúc thật sự hạnh phúc dù chỉ là thứ hạnh phúc nhỏ nhoi, mỗi ngày cuối tháng lãnh lương ra có tiền đãi mấy đứa em đi coi xi nê, mua sắm quần áo mới...
Tuy vậy cũng chứng kiến sự ra đi của Cô Em gái vì bệnh viêm não Nhật Bản, rồi thì những chuyện vượt biên của hai cậu em trai vì bị gọi đi nghĩa vụ quân sự...
Sau cùng là đến phiên mình cũng phải tìm đường vượt biển thì hứng chịu nhiều trắc trở, chạy trốn trong các cánh đồng ở Đồng Nai sau khi bị bể chuyến lần đầu , quay trở về kiếp cu li mà tinh thần thì không còn hăng say như trước nữa, chỉ nghĩ đến chuyện ra đi trở lại.
Lần thứ hai thì bị bắt ở Long Thành, vào trại giam ba tháng chứng kiến cảnh tù tội vượt biên, sống chung với tội phạm hình sự, ăn uống cực khổ trong tù, tình cảm người với người trong trại đều là những bài học dạy cho tôi cách cư xử với mọi người sau này trong đời sống.
Thoát được tù ra về tôi lại phải bôn ba bán thuốc lá và bánh ngọt ở Đường Hai Bà Trưng. tiếp xúc với đủ hạng người giàu sang hay nghèo hèn, cũng có những lúc vui. lúc buồn vì bán ế, nhưng cũng có lúc đắt hàng nhất là những ngày Giáng Sinh cuối năm 81.

Nhưng rồi cũng không yên với bọn công an phường Tân Định trong chiến dịch dọn dẹp hàng rong lề đường, tôi phải bỏ ngang chuyện buôn bán để đi làm thợ nề, xây cất nhà cửa trong một hãng tư nhân chuyên xảy cất hãng xưởng cho một Bà Chị họ là Phó Tổng Giám Đốc Công Ty Thủy Tinh Gò Vấp, thế là khăn gói mỗi ngày đi xúc cát, gánh hồ, dầm mưa dải nắng để xây nhà máy Thủy Tinh Gò Vấp, và cả một hãng xưởng khác nữa tận trong Chợ Lớn sau đó mà trong lần đó tôi đã phải nghe theo bốn đồng nghiệp ăn cắp xi măng, lận trong người đem ra chợ bán mỗi buổi chiều khi đi làm về...
Tháng 6 hay tháng 7 năm 82 tôi lại bôn ba thử thời vận lần nữa với chuyện vượt biên lần thứ 3 ở Giáo Xứ Hải Sơn, tối hôm đó cũng đổ quân xuống đó chia ra từng nhà nhỏ, chờ tới tối sẽ đi tiếp ra đường biển Vũng Tàu hay Bà rịa gì đó, ai ngờ bị bể ổ lần nữa phải chạy qua nhà thờ Giáo Xứ trốn qua đêm để hôm sau chạy về Sài Gòn lại...
Đó cũng là một nhân duyên là đưa đẩy đến việc Giáo Dân ở Hải Sơn và Đức Chúa Trời che chở cho mình thoát khỏi bị bắt...
Và cuối cùng thì lần vượt biên thứ tư cũng đến vào dịp Tết Trung Thu năm 1982 ở Long Hương , Bà Rịa làm ngư dân đánh tôm cá, trong từng thuyền nhỏ và hôm sau đó ra cá lớn mà ra đi trót lọt, tuy có sóng to gió lớn một ngày nhưng tôi ngày thứ tư thì được tàu Đan Mạch vớt đưa vào Trại Tỵ Nạn Hawkinsroad Singapore.
Vào trại tỵ nạn một thời gian thì các bạn cùng tàu đều lần lượt ra đi, có mình mình vì muốn đi Mỷ đoàn tụ với anh em mà phỏng vấn phái đoàn Mỹ bị bát đơn nên kẹt lại ở đó năm tháng tới 5 tháng mới đi định cư Đan Mạch.

Tuy vậy bây giờ nghĩ lại trong cái rủi lại có cái may, vì thời gian đó tôi đã làm được nhiều việc tốt giúp đó mọi người như làm thông dịch dẫn người đi Tòa Đại Sứ, đi khám bệnh ở nhà thương ngoài thành phố, và cũng có lúc lén trốn trại đi làm ở một hãng đóng bình Gas để kiếm một ít tiền sắm một ít đồ đạt chuẩn bị cho chuyến đi định cư tháng ba năm 1983.


Đây là một hình ảnh lưu dấu kỷ niệm của tác giả tại Đan Mạch trong những năm tháng đầu tiên:


Nguyen Khoa Tuan (11)Nguyen Khoa Tuan (10)Nguyen Khoa Tuan (9)Nguyen Khoa Tuan (8)Nguyen Khoa Tuan (7)Nguyen Khoa Tuan (6)Nguyen Khoa Tuan (5)Nguyen Khoa Tuan (4)Nguyen Khoa Tuan (3)


Đó cũng là những nhân duyên tốt xảy đến cho tôi...
Qua đến Đan Mach thì mọi thứ phải bắt đầu lại từ đầu từ việc học hành tiếng Đan, tự lập cuộc sống với số lượng trợ cấp ít ỏi hồi đó, và tuy vậy vẫn có những niềm vui nhỏ nhỏ mỗi năm Tết đến lại được sinh hoạt văn nghệ, rồi thì được một gia đình người Đan Mạch nhận mình như con nuôi, liên lạc giúp đỡ những thời gian đầu sống cô độc một mình nơi xứ lạ quê người mà đến bây giờ tôi vẫn không quên ơn Ông Bà Giáo đó, Ông đã mất và Bà thì đã về hưu thỉnh thoảng tôi vẫn ghé thăm Bà. Đó cũng là một nhân duyên tốt đã xảy đến với tôi...

Rồi thì thời gian cũng trôi qua rất nhanh đến năm 1988 tôi tốt nghiệp ngành may cắt và đi làm kiếm tiền, sống tương đối đầy đủ có dư chút đỉnh gởi về giúp gia đình còn kẹt lại ở Sài Gòn.

Cũng cùng năm đó tôi làm giấy tờ bảo lãnh gia đình tôi gồm hai cô em gái và Ba Mạ tôi đi đoàn tụ Đan Mạch vào tháng 11 năm 1989, đây cũng là một nhân duyên đặc biệt mà cũng là cơ hội để tôi được đền đáp Công Ơn dưỡng dục Sanh Thành với Ba Mạ tôi , cứu vớt gia đình còn kẹt lại và sống vui với những kỷ niệm quá đẹp khi cả gia đình đoàn tụ những năm 1993, 1994, 1998.
..
Và cho tôi bây giờ có những nhân duyên khác, lành có dữ cũng có đã xảy đến với tôi mà sau khi đã thấm nhuần chút ít Phật Pháp tôi hiểu ra chấp nhận và giữ gìn cho thân tâm luôn an lạc.


Viết từ Đan Mạch ngày 30.04.2019
Tâm Tú Nguyễn Khoa Tuấn 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
18/10/2014(Xem: 43956)
Uống trà là một nét đẹp văn hóa truyền thống của Á Đông theo phương châm“Bình minh nhất trản trà". Cách đây hàng ngàn năm, con người đã biết đến trà như một loại nước uống mang lại sự sảng khoái, thanh khiết cho tinh thần, là cách để khai tâm mở trí. Người ta xem chén trà là đầu câu chuyện, là gợi mở tâm linh, là giao thoa văn hóa và kết nối lòng người.
10/10/2014(Xem: 4514)
Từ lâu, người ta tin rằng có một cái “bản ngã” thường hằng, bất biến, tồn tại độc lập trong vạn pháp. Trước sự nhầm lẫn tai hại đó, Phật Thích Ca bèn nói thuyết “Vô ngã” để chúng sinh phá chấp. “Vô ngã” không phải không có gì hết mà là không có tự tánh, không có tự thể riêng biệt. Đây là một trong ba Pháp ấn trong hệ thống giáo lý của Phật giáo (hai pháp ấn kia là Khổ và Vô thường). Gọi là Pháp ấn có nghĩa là trong tám mươi bốn ngàn pháp môn của đạo Phật nếu có pháp môn nào không có một trong ba khái niệm Khổ, Vô thường và Vô ngã thì không phải giáo lý đạo Phật.
03/10/2014(Xem: 4434)
Học sinh thường cho rằng, các thầy cô chỉ nhớ tên học sinh giỏi, học sinh đẹp hoặc hoạt động hiệu đoàn... Cho nên mỗi lần nếu tôi gặp lại một em học sinh không có gì xuất sắc ngày xưa mà tôi còn nhớ tên, thì đó là một niềm vui to lớn của em là được thầy cô còn nhớ mặt và nhớ tên của mình. Sau khi cuộc chiến lan tràn trên quê hương thầy trò phân tán, tôi đi cùng nam cực bắc, đi xa nửa trái địa cầu, rải rác khắp nơi, tôi vẫn gặp lại những em học sinh Đồng Khánh cũ. Và nhờ cố gắng nhớ mặt, nhớ tên các em, nên hầu như ở đâu tôi cũng gieo được chút niềm vui cho những người đang phập phồng chờ được gọi đích danh sau một câu mở đầu công thức: „Cô còn nhớ em không?“. Những con người ấy, những học sinh Đồng Khánh tha phương - xa trường, xa thầy bạn cũ đã xưa rất xưa, mà chính bản thân khi soi gương cũng không còn bắt được hình bóng mình ngày ấy..., bất giác còn được gọi tên, còn được nhớ, còn được nhắc nhở đến bao kỷ niệm của một thời. Ôi! Vui biết bao nhiêu, ấm áp ngọt ngào biết bao nhiêu
02/10/2014(Xem: 4366)
Ra đến bến xe trời hãy còn khuya khoắt, trông cảnh nhộn nhịp ì xèo rộn lên từ những gian hàng ăn uống ở một góc gần bên, và tiếng nói cười lăng xăng của hành khách đi lại lẫn với tiếng những người bán hàng rong mời mọc. Nhìn sang quầy bán vé bây giờ không giống như những ngày tháng sau năm 1975, bề mặt thoáng mát rộng rãi trang trí bởi những bảng quảng cáo, những hoa văn sắc màu, những hàng ghế để khách ngồi chờ trông lịch sự. Khách mua vé rất nhanh khỏe hơn xưa, không còn cảnh chen lấn xếp hàng cả buổi trời như trước đây, lại có thêm nhiều loại xe phục vụ trên các tuyến, việc nầy còn tùy thuộc vào túi tiền của hành khách, ai có tiền nhiều thì đi loại xe chất lượng cao, còn ai ít tiền thì đi loại xe bình dân hơn. Nói vậy chứ còn khá hơn trước Đây, bởi ba chiếc xe car cũ kỹ hoặc xe chạy bằng than đá trên những tuyến Miền Đông, Miền Tây vào những năm 1975 - 1990.
24/09/2014(Xem: 6476)
Xưa có một người quyết tâm học đạo, theo một vị thiền sư sống trong một cái cốc nhỏ, sống đạm bạc, quyết chí tu hành. Một này kia, có công việc, vị thiền sư phải đi xa, dặn đệ tử ở lại phải lo chăm chỉ tu hành, luôn luôn giữ lối sống đạm bạc và tâm hồn thanh tịnh. Người đệ tử này chỉ có một chiếc khố che thân. Đêm tới khi ngủ, máng khố trên vách, thường bị chuột chui ra cắn rách, phải xin bá tánh chút vải thừa thay khố nhiều lần.
03/09/2014(Xem: 4767)
Lúc đó tôi được 13 tuổi. Trước đó một năm gia đình tôi đã chuyển từ Bắc Florida đến miền Nam California. Tôi dễ hận thù khi vừa đến tuổi vị thành niên. Tôi rất nóng nảy và hay cãi lại đối với bất cứ chuyện gì dù nhỏ mà ba mẹ đề cập tới, đặc biệt là nếu nó liên quan đến tôi. Cũng giống như nhiều đứa trẻ lứa tuổi thiếu niên, tôi khó chấp nhận bất cứ điều gì đi ngược lại với quan điểm của mình về thế giới chung quanh. Một đứa bé “thông minh không cần dạy bảo”. Tôi phản đối bất cứ biểu lộ nào của tình thương. Thật sự, tôi dễ giận dữ khi đề cập đến cái từ “thương yêu”.
26/08/2014(Xem: 4182)
Ở ven bờ bể Mễ Tây Cơ, có một làng nhỏ chuyên sống nghề đánh cá, một chiếc thuyền con lướt sóng nhẹ vào bờ, đem về vài con cá khá to. Một ông khách Mỹ đứng trên bờ, khen ngợi nghề đánh cá tài giỏi của anh chàng Mễ Tây Cơ và hỏi anh ta mất bao nhiêu thì giờ mới được chừng đó cá. _ “ Không lâu lắm đâu !” anh Mễ Tây Cơ trả lời.
17/08/2014(Xem: 25688)
Đại Sư tên là Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sinh ra ngài nhằm giờ tý, ngày mùng tám tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12. Khi ấy, hào quang từ nhà ngài chiếu sáng lên không trung, mùi hương lạ tỏa lan khắp nhà. Đến tảng sáng, có hai vị tăng lạ mặt đến thăm, bảo cha ngài rằng: “Khuya nay ông vừa sinh quý tử, chúng tôi đến đây là để đặt tên cho cháu bé. Ông nên đặt trước là chữ Huệ, sau là chữ Năng.”
17/08/2014(Xem: 24482)
Nhân quả báo ứng là một tập truyện của Trung Quốc, có vẽ tranh minh họa rất sinh động. Tập truyện này trước do ngài Văn Xương Đế Quân đời nhà Tấn sưu tập những truyện nói về nhân quả và sự báo ứng qua nhiều triều đại ở Trung Quốc.
17/08/2014(Xem: 21626)
Nhân quả là định luật căn bản xuyên suốt quá trình thành trụ hoại diệt của tất cả chúng sinh từ đời này sang đời khác, cho đến vũ trụ, vạn vật cũng không phải tuần hành, biến dịch một cách ngẫu nhiên, vô lí, mà luôn tuân theo định luật nhân quả. Định luật này không do một đấng thần linh nào, xã hội nào đặt ra cả, mà là luật tự nhiên, âm thầm, lặng lẽ, nhưng luôn đúng đắn, chính xác, hiệu quả vô cùng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]