Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Băng ngàn

10/04/201312:25(Xem: 5406)
Băng ngàn

phong canh dep

Băng ngàn

Lam Khê

Mùa đông năm ấy tuyết không rơi nhiều, nhưng cái lạnh vẫn theo sương khói ùa về làm xác xơ thêm cho khu rừng mới trải qua một mùa dông bão kéo dài trước đó. Dân trong vùng cũng đang bị nạn dịch cúm. Lúc này mọi người kéo nhau vào rừng tìm hái cỏ thuốc, và những gì có thể ăn được cho qua cơn đói lạnh ngặt nghèo.

Xung quanh một hang động nhỏ, người ta phát hiện khoảng đất rộng mọc đầy các loài dược thảo, cùng mấy luống khoai bắp đậu cà trái mùa đang ra hoa kết nụ. Tất cả đều mọc thẳng tắp như có bàn tay ai đó gieo trồng vun quén. Nhiều ngày rồi, ai qua lại nơi đây đều nhìn thấy một vị đạo sĩ ngồi tịnh niệm dưới gốc cây sồi già, trời lạnh như cắt với đầy sương sớm gió chiều, nhưng thân hình người vẫn bất động, an nhiên. Người ta nhận ra đó là vị tu sĩ lúc trước vẫn hay vào trong xóm, tay xách một giỏ đầy thuốc đến tận nhà chữa trị cho dân làng, và từ chối những thực phẩm mà bịnh nhân cúng dường tạ ơn. Ông biết mọi người đang đói. Trận bão lũ đã cuốn trôi hết hoa màu. Bịnh dịch lại lan tràn nơi vùng sơn cước hẻo lánh cách xa phố thị đến mấy ngày đường.

Không ai biết vị ẩn sĩ đang lưu trú tận nơi rẻo núi cao heo hút này. Có lẽ lâu nay ít người vào sâu trong rừng. Mà cũng bởi Ông là người từ miền xuôi đến, rồi cám cảnh ở lại tịnh tu và trồng các loại hoa màu để giúp dân làng. Mà sao Người cứ ngồi yên, mắt nhắm nghiền mãi thế kia. Ai đó đọc ra tấm biển nhỏ ghi ngoài bìa rừng “ Dân làng cần dùng thứ gì cứ tuỳ tiện hái mang về”.Ngưòi ta chỉ vào xin một ít lá thuốc, tuyệt không dám làm kinh động đến sự yên tịnh của Người.

Rồi một buổi sớm, Ẩn sĩ cũng xả thiền. Dường như mùa xuân vừa đến. Hoa cỏ nhuộm một sắc màu yên vui đằm thắm. Cư dân đã qua trận bịnh tật, lại trở nên sung sức hơn nhờ ăn những củ nhân sâm hái từ khu vườn của vị đạo sĩ. Nhà nhà giờ đây đang tưng bừng trong lễ hội mừng xuân. Vị Tu Sĩ mỉm cười trong ngày đầu năm đối diện với cảnh vật hữu hình. Những tia nắng xuân ấm áp soi sáng cả một góc hang động thâm u lạnh lẽo. Bỗng Người nhìn về phía khu rừng. Thấp thoáng có một bóng người từ xa. Một cô gái trẻ mặc váy bằng vải thổ cẩm màu sặc sở đang rẽ vào con đường mòn. Khi đến bên vị tu sĩ cô quỳ xuống, lấy ra từ trong làn giỏ mây một ít trái cây dâng lên. Khi ngước lên, cô hơi bất ngờ vì thấy tu sĩ nhìn mình chăm chú. Vị tu sĩ quan sát cô gái nhỏ, rồi bất ngờ kêu lên: _ Đông Sơn….

Cô gái ngạc nhiên, ấp úng:_ Thưa…. Ngài …vừa gọi tên của mẹ con. Xin hỏi vì sao ngài lại biết ?

Vị tu sĩ ngần ngừ giây lát rồi bỗng cười lớn. Nụ cười thoải mái tự tại mà dường như là để che dấu điều gì đó.

_ Năm xưa Ta từng đi ngao du đây đó. Và một lần ghé qua miền núi non cách trở này, ta có gặp cô gái Đông Sơn. Rất giống cô bây giờ. Thời gian thắm thoát. Đã hai mươi năm rồi còn gì. Vậy mà ta ngỡ như mới hôm nào. Không ngờ. À! Mẹ cô bây giờ …vẫn khoẻ…chứ?

Gương mặt cô gái buồn buồn :_Thưa…Mẹ con mất cách đây hơn năm rồi. Mộ mẹ nằm ngoài bìa rừng. Hôm cuối năm đi tảo mộ, con mới biết có ngài ẩn tu ở đây….

Cô gái lớn lên nơi miền sơn cước hoang dã lại có nét đẹp diệu dàng như cánh hoa rừng khép nép mà sắc hương lan toả. Nhìn vóc dáng và tên gọi, không ai nghĩ cô là người dân tộc. Mà cũng thật như vậy. Cha mẹ Đông Sơn vốn là người Kinh, cùng lên miền núi công tác, gặp gỡ nhau mà nên duyên cầm sắt. Sau khi đứa con gái ra đời được đặt tên là Đông Sơn, thì hai vợ chồng cùng mất trong một lần dịch bịnh. Đứa bé được dân làng nuôi nấng và rồi cũng lớn khôn theo năm tháng, trong trắng thơ ngây, rực rỡ giữa mây ngàn gió núi. Cô thích múa thích ca, thích hái hoa rừng về điểm trang thêm cho vẻ đẹp hoang sơ mà đằm thắm của mình. Tiếng hát trong trẻo như chim Sơn Ca lại uỵển chuyển như mây trời lãng đãng của cô gái tuổi trăng tròn từng làm rung động bao trái tim chàng trai trẻ khắp miền Trung Du một thời. Núi rừng ngàn năm ắt hẳn sẽ mãi yên bình trong tâm hồn cô gái, nếu như…Ôi! Giá như sự đời không tồn tại hai từ này, thì con người ta đâu phải thốt lên lời hối tiếc muộn màng, chứa đựng bao niềm đau, bao nỗi xót xa khoắc khoải…

Năm đó có một đoàn y sĩ từ miền xuôi đến khám bịnh cho dân làng. Một chàng trai thông minh đỉnh đạt được đề cử lưu lại thêm một thời gian khi đoàn rời đi. Chàng tên Hiền Minh, là y sĩ mới ra trường. Nhiệm vụ của chàng là huấn luyện cấp tốc một lớp y tá cho buôn làng. Đông Sơn có tham dự khoá học ấy. Thế là chuyện tình cảm xảy ra giữa đôi trai tài gái sắc là điều không tránh khỏi. Mãn khoá học, chàng trai trở về Thành Phố. Rồi cũng từ đó, Đông Sơn mất đi vẻ trinh trắng hồn nhiên của loài hoa dại chốn đại ngàn. Giọng hát của chim Sơn Ca cũng vắng tiếng mà thay vào đó là đôi mắt nâu đượm buồn của nàng sương phụ cứ dõi nhìn về phía chân trời thăm thẳm. Nhưng người ra đi đã không một lần quay trở lại.

Sau đó thì Đông Sơn hạ sanh một bé gái. Một lần nữa buôn làng sẵn lòng dang tay đùm bọc lo lắng cho hai mẹ con cô, như ngày xưa cô đã ra đời và được dưỡng nuôi nơi miềm sơn cước thấm đậm nghĩa tình này. Bao năm tháng, hoa rừng vẫn rộ nở. Ghềnh thác cheo leo và núi non hữu tình đã tạc nên một vóc dáng xinh xắn, trọn vẹn công dung ngôn hạnh cho đứa con gái có mẹ không cha. Buôn làng bây giờ đã thay đổi nhiều. Có trạm xá đầy đủ các phương tiện tối thiểu. Có trường phổ thông Trung Học nội trú ngoài thị trấn chỉ cách ven rừng hơn vài cây số. Có con đường Quốc lộ chạy dài dọc miền xuôi ngược. Nhìn con lớn khôn ngoan hiền học giỏi, Đông Sơn lấy đó làm nguồn an ủi lớn lao cho đời mình. Đứa con gái đựơc kết tinh nên từ vẻ đẹp rực rỡ hoang sơn của mẹ cùng sự mẫn cảm thông tuệ của người cha cũng sớm trở thành niềm tự hào chung cho cả buôn làng, cho cả núi rừng cây cỏ.

_ Mẹ con làm y tá nơi trạm xá xã. Một lần mẹ vào tận núi sâu để cứu một sản phụ sanh khó, rồi bị tai nạn mất. _ Cô gái nói tiếp sau khi kể lại câu chuyện về cuộc đời của người Mẹ- Con cũng sắp tốt nghiệp khoá đông y. Trong năm khi dân làng bị dịch bịnh, thầy đã ghé về đây cứu chữa bằng các loại thảo dược. Con rất thích theo học hỏi mà không dám…

_ Được rồi. Ta sẽ truyền dạy cho con những gì mà ta biết… như ngày xưa… à này! Mẹ con ắt là oán hận và đau khổ nhiều lắm. Bởi kẻ đã quất ngựa truy phong ngày đó? _ Vị Tu Sĩ có vẻ xúc động khẻ hỏi.

_ Dạ không. Mẹ vẫn thường hay kể chuyện về Ba cho con nghe. Mẹ không có chút gì oán hận ông ấy cả. Mẹ bảo: “ Ông ấy chắc có nỗi khổ tâm riêng nên đã không quay trở lại. Một người Thành Phố có gia thế danh vọng giàu có lại là con một_ Theo như lời Ba nói ấy mà, thì ít gia đình nào chấp nhận có một nàng dâu mồ côi lại là người dân tộc xa xôi này. Vả lại người đàn Ông đó cũng không hề biết là mình để lại giọt máu rơi ở nơi này. Có một đứa con với người mình thương yêu, thế là đủ. Mẹ không còn mong muốn gì hơn.

Vị Tu sĩ chìm sâu trong suy tưởng. Người đang tịnh niệm hay nghĩ ngợi về chuyện thế sựï đa đoan đầy khổ lụy của kiếùp nhân sinh. Không thể đoán định được qua vẻ mặt trầm tĩnh dù có thoáng lên đôi chút dao động khi lắng nghe câu chuyện. Cô gái vẫn miên man kể như một lời tâm sự chôn kín nay mới được dịp thố lộ:_ Bây giờ con chỉ có một mong ước… là được gặp Ba. Dù chỉ một lần duy nhất trong đời. Dù không được gọi lên tiếng ba theo lẽ thường tình…

_ Con tên là gì ?_ Tu Sĩ đột ngột mở mắt ra hỏi.

_ Dạ con tên Băng Ngàn. Mẹ bảo có một lần Ba nói nếu có con gái sẽ đặt tên là Băng Ngàn. Ýù nói ba đã băng ngàn vượt suối gặp mẹ ở đây.

Vị Tu Sĩ lại cười. Nụ cười hiền từ mà ẩn khuất xa xôi. Người lặng ngắm nhánh mai rừng mà ai đó đem đặt bên Thạch động chiều qua. Tu sĩ đã tận hưởng một mùa xuân yên tịnh của núi rừng muôn thuở diệu kỳ. Dòng suối bấy lâu nay khô cạn, bỗng dâng tràn như ghềng thác lũ…để rồi tuôn chảy qua bao mảnh đời thực thực hư hư.

Vị Tu Sĩ nhuốmbịnh đã mấy hôm rồi. Hằng ngày Băng Ngàn nấu cháo và sắc thuốc đem đến. Người vẫn ngồi thiền bên ngoài Thạch thất và chỉ nhấp chút cháo loãng. Đến ngày thứ ba, người mở mắt bảo với cô gái:_ Ta sắp đi rồi. Chỉ tiếc là chưa truyền dạy hết ngành thuốc cho con, lại chưa kịp dạy về đạo lý tu học. Nhân duyên gặp con chỉ bấy nhiêu. Ta chỉ có ít sách thuốc để lại, con hãy đọc và thực hành theo đó để làm lợi ích cho nhân sinh. Điều tâm huyết cuối cùng của Ta là… ước mong con vẫn sống tốt đẹp như núi rừng ngàn năm vang vọng, với những gì mà mẹ con đã sống, đã chắt chiu cho con cho đời, dùø có ta hay không ở cõi đời này.

Thế là Người yên lặng ra đi thanh thản khi mùa xuân vừa hết. Mọi người hoả thiêu người ngay bên Thạch Thất. Băng Ngàn giữ lấy nắm tro tàn dựng lên một ngọn tháp nhỏ thờ phụng kính bái. Cô ở lại luôn nơi đó. Hằng ngày đọc kinh điển, ngồi thiền và nghiên cứu sách thuốc cùng lo trồng tỉa và chế tác các loài thảo dược đem lại trạm xá giúp dân làng có bịnh. Không ai biết tung tích của vị ẩn sĩ khi Người đến cũng như lúc ra đi, ngoại trừ Băng Ngàn. Cô gái của chốn núi rừng lại có huyết thống với vị Tu Sĩ vừa thị tịch.

Những cánh chim Sơn Ca lại rộn rã tưng bừng hát vang bên khu rừng dược thảo. Một am thất nhỏ. Một trạm xá cùng bóng một Ni Cô diệu dàng cần mẫn vào ra chămsóc cho bịnh nhân xóm núi. Con đường phố núi vừa thông thương, lòng người thôi không còn lo cách trở vì băng đèo vượt suối. Người muôn năm trước cũng đã quay về, để chốn ngàn sâu mọi sự sống vẫn không ngừng tiếp diễn… theo dòng thời gian.

---o0o---

Trình bày: Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/02/2022(Xem: 6933)
Hai năm trước, khi tin Hòa Thượng Thích Minh Tâm viên tịch lan truyền khắp năm châu, ai ai cũng ngỡ ngàng thương tiếc. Hầu như các tự viện trên thế giới đều tổ chức lễ tưởng niệm tri ân Ngài. Tu Viện Quảng Đức cũng không ngoại lệ, buổi lễ truy niệm đã được tổ chức một cách trang nghiêm, trọng thể. Sau đó TT Thích Nguyên Tạng đã lên chương trình Hành Hương Âu Châu vào cuối tháng 7 năm 2015, với mục đích chính là tham dự lễ Đại Tường Tưởng Niệm HT Thích Minh Tâm, đồng thời dự lễ Khánh thành Chùa Khánh Anh. Phật tử TVQĐ thật hoan hỷ với tin này và đã cùng nhau lập ra kế hoạch tiết kiệm để tham dự chuyến Hành Hương Âu Châu.Thời gian hai năm tưởng là lâu, nhưng thoắt một cái ngày đi đã gần kề, mọi người nô nức chuẩn bị hành trang để lên đường. Phái đoàn Hành Hương có 83 người gồm:Melbourne: 38 người; Sydney: 21 người; Perth: 9 người;Adelaide: 5 người.
07/02/2022(Xem: 17734)
Kính đa tạ Thầy đã giới thiệu 14 lời vàng của HT Thích Trí Tịnh (1916-2014 ) một Bồ Tát thị hiện đã mang kho tàng kinh các đến với Phật Tử VN trong và ngoài nước nhưng cuối cùng di chúc để lại cho đời chỉ vỏn vẹn 14 lời vàng này lại là Kim Chỉ Nam cho những ai muốn tu tập giải thoát ( LÀM LÀNH-LÁNH DỮ-THƯƠNG NGƯỜI- THƯƠNG VẬT-ĂN CHAY-NIỆM PHẬT -TỤNG KINH ) và Bộ Toàn tập Kinh Hoa Nghiêm 4 quyển cũng như Ngũ Kinh Tịnh Độ mà Ngài đã thọ trì hằng ngày từ A lại da thức khởi phát.
24/01/2022(Xem: 5215)
Tuyển tập Hành Hương Tứ Đại Danh Sơn Trung Quốc 2007 do Tu Viện Quảng Đức tổ chức
19/01/2022(Xem: 5460)
Dân tộc Việt Nam học và hành theo giáo lý Phật thuyết trên dưới hai nghìn năm trước khi Pháp sư Huyền Trang quy Phật cũng trên sáu thế kỷ, tuy vậy cho đến nay chúng đệ tử Phật, xuất gia cũng như tại gia, biết đến công hạnh của Ngài rất ít, và cũng biết rất ít di sản Kinh Luận của Ngài cho Phật tử Việt nam học và hiểu giáo pháp của Đức Thế Tôn một cách chân chính để hành trì chân chính. Bản dịch Đại Đường Tây vực ký của Hòa Thượng Như Điển với sự đóng góp của Cư sĩ Nguyễn Minh Tiến bổ túc cho sự thiếu sót này. Từ những hiểu biết để thán phục, kính ngưỡng một Con Người vĩ đại, hãn hữu, trong lịch sử văn minh tiến bộ của nhân loại, một vị Cao Tăng thạc đức, với nghị lực phi thường, tín tâm bất hoại nơi giáo lý giải thoát, một thân đơn độc quyết vượt qua sa mạc nóng cháy mênh mông để tìm đến tận nguồn suối Thánh ngôn rồi thỉnh về cho dân tộc mình cùng thừa hưởng nguồn pháp lạc. Không chỉ cho dân tộc mình mà cho tất cả những ai mong cầu giải thoát chân chính.
04/01/2022(Xem: 6166)
Không hiểu sao mỗi khi nhớ về những sự kiện của năm 1963 lòng con bổng chùng lại, bồi hồi xúc động về quá khứ những năm đen tối xảy đến gia đình con và một niềm cảm xúc khó tả dâng lên...nhất là với giọng đọc của Thầy khi trình bày sơ lược tiểu sử Đức Ngài HT Thích Trí Quang ( một sưu tầm tài liệu tuyệt vời của Giảng Sư dựa trên “ Trí Quang tự truyện “ đã được đọc tại chùa Pháp Bảo ngày 12/11/2019 nhân buổi lễ tưởng niệm sự ra đi của bậc đại danh tăng HT Thích Trí Quang và khi online cho đến nay đã có hơn 45000 lượt xem). Và trước khi trình pháp lại những gì đã đươc nghe và đi sâu vào chi tiết bài giới thiệu Bộ Pháp Ảnh Lục cùng lời cáo bạch của chính Đức Ngài HT Thích Trí Quang về bộ sách này, kính trich đoạn vài dòng trong tiểu sử sơ lược của HT Thích Trí Quang do Thầy soạn thảo mà con tâm đắc nhất về;
04/01/2022(Xem: 5076)
Trên đất nước ta, rừng núi nào cũng có cọp, nhưng không phải vô cớ mà đâu đâu cũng truyền tụng CỌP KHÁNH HÒA, MA BÌNH THUẬN. Tỉnh Bình Thuận có nhiều ma hay không thì không rõ, nhưng tại tỉnh Khánh Hòa, xưa kia cọp rất nhiều. Điều đó, người xưa, nay đều có ghi chép lại. Trong sách Hoàng Việt Nhất Thống Dư Địa Chí (1) của Thượng Thư Bộ Binh Lê Quang Định soạn xong vào năm 1806 và dâng lên vua Gia Long (1802-1820), tổng cộng 10 quyển chép tay, trong đó quyển II, III và IV có tên là Phần Dịch Lộ, chép phần đường trạm, đường chính từ Kinh đô Huế đến các dinh trấn, gồm cả đường bộ lẫn đường thủy. Đoạn đường ghi chép về ĐƯỜNG TRẠM DINH BÌNH HÒA (2) phải qua 11 trạm dịch với đoạn đường bộ đo được 71.506 tầm (gần 132 km)
04/01/2022(Xem: 4093)
Ngoài tên “thường gọi” là Cọp, là Hổ, tiếng Hán Việt là Dần, cọp còn có tên là Khái, là Kễnh, Ba Cụt (cọp ba chân), Ba Ngoe (cọp ba móng), Ông Chằng hay Ông Kẹ, Ông Dài, Ông Thầy (cọp thành tinh). Dựa vào tiếng gầm của cọp, cọp còn có tên gọi là Hầm, là Hùm, dựa vào sắc màu của da là Gấm, là Mun ... Ở Nam Bộ cò gọi cọp là Ông Cả, vì sợ cọp quấy phá, lập miếu thờ, tôn cọp lên hàng Hương Cả là chức cao nhất trong Ban Hội Tề của làng xã Nam Bộ thời xưa. Cọp cũng được con người gọi lệch đi là Ông Ba Mươi. Con số ba mươi này có nhiều cách giải thích: - Cọp sống trung bình trong khoảng ba mươi năm. - Cọp đi ba mươi bước là quên hết mọi thù oán. - Xưa, triều đình đặt giải, ai giết được cọp thì được thưởng ba mươi đồng, một món tiền thưởng khá lớn hồi đó. - Tuy nhiên, cũng có thời, ai bắt, giết cọp phải bị phạt ba mươi roi, vì cho rằng cọp là tướng nhà Trời, sao dám xúc phạm (?). Ngày nay, cọp là loài vật quý hiếm, có trong sách Đỏ, ai giết, bắt loài thú này không những bị phạt tiền mà còn ở
30/12/2021(Xem: 5340)
Tối ngày 11/02 âm lịch (03/03/2012), vào lúc 10 giờ tối, lúc đó tôi niệm Phật ở dưới hai cái thất mà phía trên là phòng của Sư Ông. Khi khóa lễ vừa xong, bỗng nghe (thấy) tiếng của đầu gậy dọng xuống nền phát ra từ phòng của Sư Ông. Lúc đó tôi vội vàng chạy lên, vừa thấy tôi, Ông liền bảo: “Lấy cái đồng hồ để lên đầu giường cho Sư Ông và lấy cái bảng có bài Kệ Niệm Phật xuống” (trong phòng Sư Ông có treo cái bảng bài Kệ Niệm Phật). Khi lấy xuống Sư Ông liền chỉ vào hai câu: Niệm lực được tương tục, đúng nghĩa chấp trì danh, rồi Sư Ông liền chỉ vào mình mà ra hiệu, ý Sư Ông nói đã được đến đây, sau khi ngồi hồi lâu Sư Ông lên giường nghỉ tiếp.
25/12/2021(Xem: 3884)
Cảo San đường Tuệ Nguyên Đại Tông sư (고산당 혜원대종사, 杲山堂 慧元大宗師) sinh ngày 8 tháng 12 năm 1933 tại huyện Ulju, Ulsan, một thành phố nằm ở phía đông nam Hàn Quốc, giáp với biển Nhật Bản. Ngài vốn sinh trưởng trong tộc phả danh gia vọng tộc, phụ thân Họ Ngô (해주오씨, 海州吳氏), Haeju, Bắc Triều Tiên và tộc phả của mẫu thân họ Park (밀양박씨, 密陽朴氏), Miryang, Gyeongsangnam-do, Hàn Quốc. Năm lên 7 tuổi, Ngài được sự giáo huấn của người cha kính yêu tuyệt vời, cụ đã dạy các bộ sách Luận ngữ, Mạnh Tử, Thích Độ, Đại Học, Tứ Thư và học trường tiểu học phổ thông. Vào tháng 3 năm Ất Dậu (1945), khi được 13 tuổi, Bồ đề tâm khai phát để làm tiền đề cho Bát Nhã đơm bông, Ngài đảnh lễ Đại Thiền sư Đông San Tuệ Nhật (동산혜일대선사, 東山慧日大禪師, 1890-1965) cầu xin xuất gia tu học Phật pháp. Thật là “Đàm hoa nhất hiện” khi những sợi tóc não phiền rơi rụng theo từng nhát kéo đong đưa. Tháng 3 năm 1948, Ngài được Hòa thượng Bản sư truyền thụ giới Sa di tại Tổ đình Phạm Ngư Tự (범어사, 梵魚寺), Geumjeong-gu, Busan, Hàn Qu
23/12/2021(Xem: 3007)
Chánh Điện của một ngôi Chùa tại xứ Đức, cách đây hơn 40 năm về trước; nơi có ghi hai câu đối: "Viên thành đạo nghiệp Tây Âu quốc. Giác ngộ chúng sanh đạo lý truyền", bây giờ lại được trang hoàng thật trang nghiêm và rực rỡ với các loại hoa. Đặc biệt nhất vẫn là những chậu cây Trạng Nguyên nhỏ to đủ kiểu, nổi bật nhất vẫn là những chiếc lá đỏ phía trên phủ lên những chiếc lá xanh bên dưới. Ai đã có ý tưởng mang những cây Nhất Phẩm Hồng, có nguồn gốc ở miền Nam Mexico và Trung Mỹ vào đây? Và theo phong thủy, loại cây này mang đến sự thành công, đỗ đạt và may mắn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567