Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Cánh Hạc Mùa Đông

10/04/201312:17(Xem: 4234)
Cánh Hạc Mùa Đông

muadong_1

Cánh hạc mùa đông.

Lam Khê

Mùa đông về làm cho ngọn đồi thông thêm rộng thoáng. Không một chiếc lá cây rơi rụng. Không một bóng người lui tới để nghe tiếng bước chân dẫm dài trên đá sỏi. Không gian im vắng và thanh tịnh là thế; vậy mà mấy hôm nay bỗng nhộn nhịp đông đúc hẳn lên. Tiếng đại hồng chung từ ngôi chùa vang xa trầm ấm, đã trở nên một nhịp sống thiêng liêng quen thuộc đối với người dân ở quanh vùng. Du khách thập phương cũng ghé lại nhiều hơn để nghe Sư Ông thuyết pháp và tham quan chiêm ngưỡng mấy ngôi mộ cổ mang tính lịch sử của một thời vua chúa xa xưa.

Chú tiểu nhỏ bước ra sân quét dọn. Trời vẫn còn sớm, đầy sương mù và lạnh căm căm. Chú nhìn sang ngôi tịnh thất nhỏ có hàng chè tàu được cắt tỉa gọn gàng. Sư Ông đã đứng đó tự bao giờ. Người lớn tuổi lắm rồi. Một vẻ gầy gầy xương xương trông bộ đồ nâu bạc cũ, nhưng trông người vẫn còn phong độ qua dáng đi khoẻ mạnh tự tin, qua ánh mắt tinh tường, nụ cười đầm ấm an lạc. Và một giọng nói mang âm sắc nhẹ nhàng truyền cảm đặc biệt của người viễn xứ vừa trở lại Quê nhà sau nhiều năm xa cách.

Thầy đứng đó. Từ khi hồi chuông công phu khuya mới điểm, cho đến lúc hừng đông tỏ rạng, nhuộm thắm cả cánh rừng thông phía trước. Chiếc áo nhật bình khẻ run lên theo làn gió bấc hiu hiu se lạnh. Nhưng Thầy vẫn đứng yên, như sợ khoảng trời đầy riêng tư thơ mộng này vụt trôi nhanh theo tầm mắt. Ở đây lòng người không buồn theo cảnh sắc, mà cảnh sắc đang muốn thu hồn người vào đó. Một chuyến trở về thăm quê mang ý nghĩa nhiều hơn những gì Thầy mong đợi. Hình ảnh ngôi chùa làng còn in đậm nét rêu phong từ thời còn hành điệu. Những dãy nhà ngói, khu phố cổ ẩn mình bên hàng chè tàu mà năm tháng càng phô trương thêm vẻ kiều diễm khuất kín. Bao năm rồi cánh nhạn phong sương tung mây lướt gió. Có biết bao là cảnh đẹp, những kỳ quan vào bực nhứt thiên hạ, những công trình mang tầm cở của thiên niên kỷ mới. Vậy mà làng nhỏ quê nhà cứ làm lòng Thầy bâng khuâng náo nức mỗi lần nghĩ đến.

_ Bạch sư Ông, người choàng thêm chiếc áo khoác vào… kẻo trời còn lạnh lắm.

Thầy quay lại mỉm cười nhìn chú Tiểu, không cảm thấy phiền hà vì giòng tư tưởng bị cắt đứt:

_ Cám ơn chú. Cái lạnh này chẳng thấm vào đâu so với nhiều nơi thầy đã sống. Thầy muốn tìm lại chút cảm giác thân quen khi trở lại quê nhà đấy mà.

Không gian bỗng vang lên tiếng hót rộn ràng của muôn loài chim chóc. Những cánh chim mùa đông vẫn tụ về làm tổ trên những cành cây cao. Có lẽ vì đây vẫn còn nguyên sơ cảnh núi rừng yên ổn, chưa bị tàn phá bởi bàn tay con người và cơ chế máy móc. Cả cánh rừng lúc này trông như tấm thảm bạc trải rộng. Một vài khoảng trống vàng nhạt của nền trời xen lẫn tạo nên một khung cảnh hài hoà nên thơ mà dịu ấm. Ôi! Thầy đã từng nhìn thấy nhiều khu rừng thông tuyệt đẹp; những mùa đông đầy tuyết trắng, những đồi cây ẩn hiện trong màn sương bạc mênh mông. Vậy mà những cành thông mộc mạc quê nhà vẫn cứ mang một hồn sắc riêng trong lòng thầy. Nơi toả bóng cho một thời tuổi thơ yên ấm mà ước nguyện thanh cao vời vợi. Nhưng rồi cánh chim xanh lại sớm lìa xa tổ ấm…

Một chiều đông rét buốt. Có đứa bé trai từ vùng duyên hải cát trắng xa xôi xuôi về Thành phố rồi đi ngược ra ngoại ô, dừng chân lại trên ngọn đồi cao khi trời vừa xâm xẩm tối. Cậu bé lần bước lên từng bực thềm đá, tai lắng nghe tiếng tụng kinh trầm trầm vang lên từ ngôi chánh điện. Suốt buổi tối cậu ngồi nép sát vào hiên chùa để cố trốn những cơn gió bấc lùa về, nhưng hàm răng vẫn đánh mạnh vào nhau, bụng đói cồn cào, hai bàn chân sưng rộp và đau nhức. Thời kinh dứt đã lâu. Cánh cửa chánh điện kín mít chỉ toả ra chút ánh sáng tù mù từ mấy ngọn đèn dầu leo lét. Cậu bé vẫn ngồi yên, tợ như đang ngủ gục, cho đến lúc thầy tri khách bước ra sân đóng cổng:

_ A! cậu bé nào ngồi ở đây ri ? Trời tối rồi sao không về nhà?

Thầy dẫn cậu vào bên trong nhà Tổ. Sư trụ trì đang ngồi trên sạp gụ lần chuổi hạt.

_ Bạch Ôn… Chú nhỏ này không biết con nhà ai lại đến ngồi ngoài hiên chùa từ chập tối…

Sư mở mắt ra nhìn cậu bé đang ôm bên mình chiếc túi xách nhỏ. Người nhỏ nhẹ cất tiếng hỏi, những hạt chuổi đen tuyền vẫn lướt qua đôi tay gân guốc-:

_ Con từ đâu tới? Bỏ nhà đi phải không ?

Cậu bé run run phần vì lo sợ, phần vì lấy làm lạ_ Không hiểu sao Sư Cụ lại đoán biết:_ Dạ bạch Ôn …nhà con ở dưới quê xa. Con muốn đi tu. Xin Ôn cho con được ở lại đây.

_ Cha mẹ con còn không? Làm sao lại biết nơi này?

_ Dạ thưa… Con thích đi tu mà ba mạ không cho, vì con là con trai duy nhất. Tháng trước có một huynh trưởng về quê con sinh hoạt, nói chùa này có nhiều chú điệu đến tu và chỉ dẫn đường đi…

Thầy tri khách tiếp lời:_ Em ngồi co ro bên chái cửa. Con không ra, đến sáng chắc chết rét.

Ôn lặng lẽ ngắm cậu bé, lòng nghĩ ngợi miên man. Thằng nhỏ trông vẻ mặt khôi ngô mà đôn hậu. Vần trán cao với cặp mắt thông thái chứa đầy nhuệ khí, lại có lòng can đảm tánh chất trực đáng quý. Nếu tu được ngày sau ắt sẽ làm lợi ích cho đạo pháp đây_ Về sau Ôn mới nói ra điều suy nghĩ này. Lúc đó người chỉ ôn tồn bảo với thầy tri khách:_ Cậu bé chắc bụng đói lắm rồi, thôi theo thầy tri khách xuống nhà trù dùng cơm. Rồi thầy đưa lên nhà giảng ngủ, nhớ lấy chăn và áo đưa cậu mặc thêm cho ấm. Chuyện gì rồi ngày mai hẳn tính.

Sáng trở dậy Cậu bé ra sân phụ quét dọn và lau chùi bàn ghế. Mấy chú Tiểu thấy người lạ hơi bở ngỡ chốc lát, rồi nhanh chóng làm quen nói cười thân mật như bạn bè thân thiết từ lâu_ con nít mà. Dù có chút rụt rè, nhưng sắc mặt cậu bé cũng tươi tỉnh hớn hở hẳn lên. Cậu đến bên hiên chánh điện, lòng thầm khấn nguyện….

…. Sau khi dùng điểm tâm, Sư trụ trì cho gọi cậu bé vào hỏi:

_ Con tên là gì? Vì sao lại trốn nhà đi tu? Hãy nói rõ về gia thế cùng những suy nghĩ của con cho Ôn nghe thử xem.

_ Bạch Ôn…Con tên Hoà, học lớp sáu trường làng. Con vẫn thường theo các O chú dưới quê đi chùa và sinh hoạt cùng gia đình Phật Tử. Con muốn được như mấy chú điệu ở chùa tụng kinh làm công quả và tu học cho đến ngày giải thoát. Con cũng mong ước sau này khi lớn lên được như quý ôn quý thầy làm những điều lợi ích cho chúng sinh…

Sư cười lớn, khẻ gật đầu nói:_ Khá lắm, Con còn nhỏ mà đã có tư tưởng như vậy. Hãy giữ mãi tâm niệm ban đầu này. Còn bây giờ…theo phép nhà chùa, thì người xuất gia phải có sự đồng ý của gia đình. Vậy con cứ tạm thời ở đây, vài hôm nữa quý thầy sẽ tìm liên lạc cho cha mẹ con biết. Được hay không còn tuỳ duyên cùng lòng kiên định của con. Thôi con ra ngoài để quý thầy chỉ dạy thêm. Àø… để Ôn đặt cho con pháp danh là Thuận Nguyên, mong là việc xuất gia tu học của con rồi đây sẽ được thuận buồm nguyên vẹn.

Chú tiểu Thuận Nguyên được xuống tóc để chỏm sau đó không lâu. Chẳng phải êm xuôi gì nhưng vì lòng chân thành mến đạo và kiên quyết của chú bé nên cuối cùng cha mẹ đành chấp thuận gởi con cho sư ông trụ trì. Lúc ấy chùa có mở lớp gia giáo dạy kinh cho chúng điệu nơi bổn tự cùng những chùa lân cận đến xin học. Thuận Nguyên cũng như mấy chú ở chùa vừa được đi học văn hoá ở ngoài vừa học đạo tại chùa. Chú nhỏ tuổi và hiền lành hơn cả, nhưng học hạnh thì cần mẫn thông minh lại khiếm tốn hài hoà, nên sư phụ, quý sư huynh rất yêu mến. Hết bậc trung học, thì chú cũng có chút vốn liếng nội điển cơ bản. Sau đó Sư Phụ cho phép chú cùng nhiều huynh đệ đồng trang lứa thi vào Viện Đại học phật Pháp ở Sài Gòn. Con đường xuôi nam tu học của chú xem ra khá là thuận duyên thẳng tiến.

Tuổi trẻ chứa chan niềm nhiệt huyết, tâm chí cầu đạo toả sáng, học hạnh kiêm ưu, trí năng càng hiển lộ. Thuận Nguyên lại nung nấu biết bao tâm nguyện. Muốn xây dựng một đội ngũ Tăng sinh mang tinh thần nhập thế. Muốn đưa con thuyền đạo pháp vươn đến tận cùng mọi đời sống nhân sinh xã hội. Muốn cải tổ hệ thống giáo dục Tăng Ni v..v. Nhưng Phật Giáo gặp thời pháp nạn, chịu sự kỳ thị và đang không ngừng đấu tranh đổ nhiều xương máu. Với sự năng nổ của vị tăng vừa rời ghế Phật học Viện, nhưng tiềm lực bên trong chưa đủ, trợ lực bên ngoài không mạnh, một định hướng tốt cũng khó được hình thành lúc này.. Ngày xưa Tổ Đạt Ma gặp thời tao loạn mà quyết chí đem đạo pháp truyền sang đông độ. Tổ Huệ Năng thì thọ nhận pháp ấn đi về phương nam hành hoá. Thầy đâu dám ví mình có đạo lực uyên thâm và chí hướng cao xa như chư tổ, chỉ ước nguyện một đời xả thân vì đạo vì đời, mong đem ánh sáng chơn lý đạo mầu soi tỏ khắp cùng nhân thế.

Ngày thầy trở về chùa đảnh lễ sư phụ để ra đi, Người vẫn ngồi lần chuổi niệm Phật trên bộ phản giữa nhà tổ, mắt hướng về mấy chậu cúc vạn thọ nơi bục cửa. Mùa xuân còn bỏ ngỏ mà lòng người đã sẵn sàng ra đi. Thầy nhớ mãi ánh mắt từ hoà thương cảm khi Sư Phụ nhìn mình như nhìn chú bé ngày đầu tiên tay ôm bọc áo quần đến chùa xin ở lại tu. Những lời nói của Sư phụ ngày ấy, thầy đã mang theo trên mọi bước đường du phương hoằng hóa.

_ “Khi Sư Phụ nhìn vào đôi mắt thông minh cương nghị của chú bé mới vào chùa đã đoán được phần nào. Rồi đây chú sẽ làm nhiều lợi đạo ích đời. Rồi đây chú sẽ mang chí nguyện vươn xa khắp mọi chân trời. Nay chính là lúc con phải ra đi rồi. Thầy chỉ có mấy lời, là mong con luôn giữ vững tâm nguyện xuất gia ban đầu. Đạo tâm vững, chí nguyện sâu thì dù ở đâu cũng có thể hoằng pháp lợi sanh. Đi xa, cũng là dịp tốt để con có tầm nhìn rộng thoáng và thiết thực, từ đó sẽ có định hướng đúng đắn, sẽ kiến tạo nên một sự nghiệp lớn, phù hợp với màu áo và tâm hạnh của người xuất gia…”

Chuyến ra đi ngày ấy, chỉ dự kiến một thời gian. Ai ngờ … phải mất gần non nửa thế kỷ Thầy mới có dịp trở về thăm lại quê hương. Vị Bổn Sư khả kính đã viên tịch. Ngôi chùa Tổ cổ kín theo thời gian vẫn yên vị trên ngọn đồi thông lộng gió. Các vị sư huynh sư đệ người còn người mất, ai đến ai đi chắc cũng thấu hiểu sự trở về mang đầy ý hướng tốt đẹp của Thầy. Một đời vân du trong cõi người ta, những nơi Thầy đi qua đã trở thành niềm ký ức khó quên cho lòng người khi đến. Nhiều nơi đã trở thành trung tâm Phật giáo quy tụ nhiều tín đồ học Phật đầy đủ mọi màu da chủng tộc. Nhưng điều thầy đạt được hơn cả là không đánh mất niềm tin cùng sự kỳ vọng của thầy tổ huynh đệ, của bao thế hệ người đã và đang tận lực hy sinh cho đạo pháp và dân tộc này.

Hơn nửa đời người làm thân lữ thứ, Thầy luôn tự ví mình như cảnh chimViệt cành Nam. Con người ta…ai chẳng một quê hương để nhớ tưởng, để quay về khi xế chiều lặn bóng. Quê hương Thầy là đây; là nơi trở về trong tâm thức có ánh đạo từ quang soi sáng. Quê Hương này từ lâu đã sống trong cảnh thanh bình yên ấm. Đạo pháp vẫn mãi trường tồn trong lòng dân tộc. Bao ước nguyện một thời của vị Tăng sinh trẻ nay gần như đã được hình thành. Ngày trở về… Thầy những mong góp chút hạnh nguyện cuối đời cho sự phát triển đạo pháp nơi quê nhà. Cánh buồm xưa đã xuôi về bến cũ.

Thầy bước lần ra sân…. cùng đến chấp tác với chúng điệu, góp thêm nắm đất vun cho mấy chậu hoa đang kết nhuỵ. Những vẻ mặt hồn nhiên tươi tắn trong bộ đồ bạc thếch lấm tấm mồ hôi bùn đất. Có ai đó vừa nhìn thấy hình ảnh ngày nào của chú tiểu Thuận Nguyên. Bên thềm đá sỏi vẫn còn in rõ dấu chân nai một thời thơ dại. Vài cánh chim Hạc vừa bay qua nền trời. Mùa xuân sắp về rồi. Chim Hạc ắt hẳn cũng muốn quay về… với nơi chốn bình yên muôn thuở.

---o0o---

Trình bày: Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/02/2022(Xem: 7004)
Hai năm trước, khi tin Hòa Thượng Thích Minh Tâm viên tịch lan truyền khắp năm châu, ai ai cũng ngỡ ngàng thương tiếc. Hầu như các tự viện trên thế giới đều tổ chức lễ tưởng niệm tri ân Ngài. Tu Viện Quảng Đức cũng không ngoại lệ, buổi lễ truy niệm đã được tổ chức một cách trang nghiêm, trọng thể. Sau đó TT Thích Nguyên Tạng đã lên chương trình Hành Hương Âu Châu vào cuối tháng 7 năm 2015, với mục đích chính là tham dự lễ Đại Tường Tưởng Niệm HT Thích Minh Tâm, đồng thời dự lễ Khánh thành Chùa Khánh Anh. Phật tử TVQĐ thật hoan hỷ với tin này và đã cùng nhau lập ra kế hoạch tiết kiệm để tham dự chuyến Hành Hương Âu Châu.Thời gian hai năm tưởng là lâu, nhưng thoắt một cái ngày đi đã gần kề, mọi người nô nức chuẩn bị hành trang để lên đường. Phái đoàn Hành Hương có 83 người gồm:Melbourne: 38 người; Sydney: 21 người; Perth: 9 người;Adelaide: 5 người.
07/02/2022(Xem: 17954)
Kính đa tạ Thầy đã giới thiệu 14 lời vàng của HT Thích Trí Tịnh (1916-2014 ) một Bồ Tát thị hiện đã mang kho tàng kinh các đến với Phật Tử VN trong và ngoài nước nhưng cuối cùng di chúc để lại cho đời chỉ vỏn vẹn 14 lời vàng này lại là Kim Chỉ Nam cho những ai muốn tu tập giải thoát ( LÀM LÀNH-LÁNH DỮ-THƯƠNG NGƯỜI- THƯƠNG VẬT-ĂN CHAY-NIỆM PHẬT -TỤNG KINH ) và Bộ Toàn tập Kinh Hoa Nghiêm 4 quyển cũng như Ngũ Kinh Tịnh Độ mà Ngài đã thọ trì hằng ngày từ A lại da thức khởi phát.
24/01/2022(Xem: 5269)
Tuyển tập Hành Hương Tứ Đại Danh Sơn Trung Quốc 2007 do Tu Viện Quảng Đức tổ chức
19/01/2022(Xem: 5493)
Dân tộc Việt Nam học và hành theo giáo lý Phật thuyết trên dưới hai nghìn năm trước khi Pháp sư Huyền Trang quy Phật cũng trên sáu thế kỷ, tuy vậy cho đến nay chúng đệ tử Phật, xuất gia cũng như tại gia, biết đến công hạnh của Ngài rất ít, và cũng biết rất ít di sản Kinh Luận của Ngài cho Phật tử Việt nam học và hiểu giáo pháp của Đức Thế Tôn một cách chân chính để hành trì chân chính. Bản dịch Đại Đường Tây vực ký của Hòa Thượng Như Điển với sự đóng góp của Cư sĩ Nguyễn Minh Tiến bổ túc cho sự thiếu sót này. Từ những hiểu biết để thán phục, kính ngưỡng một Con Người vĩ đại, hãn hữu, trong lịch sử văn minh tiến bộ của nhân loại, một vị Cao Tăng thạc đức, với nghị lực phi thường, tín tâm bất hoại nơi giáo lý giải thoát, một thân đơn độc quyết vượt qua sa mạc nóng cháy mênh mông để tìm đến tận nguồn suối Thánh ngôn rồi thỉnh về cho dân tộc mình cùng thừa hưởng nguồn pháp lạc. Không chỉ cho dân tộc mình mà cho tất cả những ai mong cầu giải thoát chân chính.
04/01/2022(Xem: 6209)
Không hiểu sao mỗi khi nhớ về những sự kiện của năm 1963 lòng con bổng chùng lại, bồi hồi xúc động về quá khứ những năm đen tối xảy đến gia đình con và một niềm cảm xúc khó tả dâng lên...nhất là với giọng đọc của Thầy khi trình bày sơ lược tiểu sử Đức Ngài HT Thích Trí Quang ( một sưu tầm tài liệu tuyệt vời của Giảng Sư dựa trên “ Trí Quang tự truyện “ đã được đọc tại chùa Pháp Bảo ngày 12/11/2019 nhân buổi lễ tưởng niệm sự ra đi của bậc đại danh tăng HT Thích Trí Quang và khi online cho đến nay đã có hơn 45000 lượt xem). Và trước khi trình pháp lại những gì đã đươc nghe và đi sâu vào chi tiết bài giới thiệu Bộ Pháp Ảnh Lục cùng lời cáo bạch của chính Đức Ngài HT Thích Trí Quang về bộ sách này, kính trich đoạn vài dòng trong tiểu sử sơ lược của HT Thích Trí Quang do Thầy soạn thảo mà con tâm đắc nhất về;
04/01/2022(Xem: 5105)
Trên đất nước ta, rừng núi nào cũng có cọp, nhưng không phải vô cớ mà đâu đâu cũng truyền tụng CỌP KHÁNH HÒA, MA BÌNH THUẬN. Tỉnh Bình Thuận có nhiều ma hay không thì không rõ, nhưng tại tỉnh Khánh Hòa, xưa kia cọp rất nhiều. Điều đó, người xưa, nay đều có ghi chép lại. Trong sách Hoàng Việt Nhất Thống Dư Địa Chí (1) của Thượng Thư Bộ Binh Lê Quang Định soạn xong vào năm 1806 và dâng lên vua Gia Long (1802-1820), tổng cộng 10 quyển chép tay, trong đó quyển II, III và IV có tên là Phần Dịch Lộ, chép phần đường trạm, đường chính từ Kinh đô Huế đến các dinh trấn, gồm cả đường bộ lẫn đường thủy. Đoạn đường ghi chép về ĐƯỜNG TRẠM DINH BÌNH HÒA (2) phải qua 11 trạm dịch với đoạn đường bộ đo được 71.506 tầm (gần 132 km)
04/01/2022(Xem: 4120)
Ngoài tên “thường gọi” là Cọp, là Hổ, tiếng Hán Việt là Dần, cọp còn có tên là Khái, là Kễnh, Ba Cụt (cọp ba chân), Ba Ngoe (cọp ba móng), Ông Chằng hay Ông Kẹ, Ông Dài, Ông Thầy (cọp thành tinh). Dựa vào tiếng gầm của cọp, cọp còn có tên gọi là Hầm, là Hùm, dựa vào sắc màu của da là Gấm, là Mun ... Ở Nam Bộ cò gọi cọp là Ông Cả, vì sợ cọp quấy phá, lập miếu thờ, tôn cọp lên hàng Hương Cả là chức cao nhất trong Ban Hội Tề của làng xã Nam Bộ thời xưa. Cọp cũng được con người gọi lệch đi là Ông Ba Mươi. Con số ba mươi này có nhiều cách giải thích: - Cọp sống trung bình trong khoảng ba mươi năm. - Cọp đi ba mươi bước là quên hết mọi thù oán. - Xưa, triều đình đặt giải, ai giết được cọp thì được thưởng ba mươi đồng, một món tiền thưởng khá lớn hồi đó. - Tuy nhiên, cũng có thời, ai bắt, giết cọp phải bị phạt ba mươi roi, vì cho rằng cọp là tướng nhà Trời, sao dám xúc phạm (?). Ngày nay, cọp là loài vật quý hiếm, có trong sách Đỏ, ai giết, bắt loài thú này không những bị phạt tiền mà còn ở
30/12/2021(Xem: 5363)
Tối ngày 11/02 âm lịch (03/03/2012), vào lúc 10 giờ tối, lúc đó tôi niệm Phật ở dưới hai cái thất mà phía trên là phòng của Sư Ông. Khi khóa lễ vừa xong, bỗng nghe (thấy) tiếng của đầu gậy dọng xuống nền phát ra từ phòng của Sư Ông. Lúc đó tôi vội vàng chạy lên, vừa thấy tôi, Ông liền bảo: “Lấy cái đồng hồ để lên đầu giường cho Sư Ông và lấy cái bảng có bài Kệ Niệm Phật xuống” (trong phòng Sư Ông có treo cái bảng bài Kệ Niệm Phật). Khi lấy xuống Sư Ông liền chỉ vào hai câu: Niệm lực được tương tục, đúng nghĩa chấp trì danh, rồi Sư Ông liền chỉ vào mình mà ra hiệu, ý Sư Ông nói đã được đến đây, sau khi ngồi hồi lâu Sư Ông lên giường nghỉ tiếp.
25/12/2021(Xem: 3908)
Cảo San đường Tuệ Nguyên Đại Tông sư (고산당 혜원대종사, 杲山堂 慧元大宗師) sinh ngày 8 tháng 12 năm 1933 tại huyện Ulju, Ulsan, một thành phố nằm ở phía đông nam Hàn Quốc, giáp với biển Nhật Bản. Ngài vốn sinh trưởng trong tộc phả danh gia vọng tộc, phụ thân Họ Ngô (해주오씨, 海州吳氏), Haeju, Bắc Triều Tiên và tộc phả của mẫu thân họ Park (밀양박씨, 密陽朴氏), Miryang, Gyeongsangnam-do, Hàn Quốc. Năm lên 7 tuổi, Ngài được sự giáo huấn của người cha kính yêu tuyệt vời, cụ đã dạy các bộ sách Luận ngữ, Mạnh Tử, Thích Độ, Đại Học, Tứ Thư và học trường tiểu học phổ thông. Vào tháng 3 năm Ất Dậu (1945), khi được 13 tuổi, Bồ đề tâm khai phát để làm tiền đề cho Bát Nhã đơm bông, Ngài đảnh lễ Đại Thiền sư Đông San Tuệ Nhật (동산혜일대선사, 東山慧日大禪師, 1890-1965) cầu xin xuất gia tu học Phật pháp. Thật là “Đàm hoa nhất hiện” khi những sợi tóc não phiền rơi rụng theo từng nhát kéo đong đưa. Tháng 3 năm 1948, Ngài được Hòa thượng Bản sư truyền thụ giới Sa di tại Tổ đình Phạm Ngư Tự (범어사, 梵魚寺), Geumjeong-gu, Busan, Hàn Qu
23/12/2021(Xem: 3016)
Chánh Điện của một ngôi Chùa tại xứ Đức, cách đây hơn 40 năm về trước; nơi có ghi hai câu đối: "Viên thành đạo nghiệp Tây Âu quốc. Giác ngộ chúng sanh đạo lý truyền", bây giờ lại được trang hoàng thật trang nghiêm và rực rỡ với các loại hoa. Đặc biệt nhất vẫn là những chậu cây Trạng Nguyên nhỏ to đủ kiểu, nổi bật nhất vẫn là những chiếc lá đỏ phía trên phủ lên những chiếc lá xanh bên dưới. Ai đã có ý tưởng mang những cây Nhất Phẩm Hồng, có nguồn gốc ở miền Nam Mexico và Trung Mỹ vào đây? Và theo phong thủy, loại cây này mang đến sự thành công, đỗ đạt và may mắn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567