Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Cõi Tạm Còn Vang

11/10/201613:11(Xem: 3004)
Cõi Tạm Còn Vang
  Lời Thưa cõi tạm còn vang

LỜI  THƯA  CÕI  TẠM  CÒN  VANG
                                                                                 
   Nhân lễ Tiểu Tường cố Hòa thượng Thích Thông Quả (1939-2015)
 

 

Lần giở sổ tay chợt giật mình nhớ ngày ra đi của cố Hòa Thượng Thích Thông Quả (1939 - 2015), nguyên viện chủ Thiền Viện Phước Hoa, Long Thành, Đồng Nai. Hòa thượng đã xả báo an tường vào trưa ngày 13 tháng chín năm Ất Mùi (2015) nhằm ngày 25/10/ 2015 với 32 hạ lạp chuyên tu trong 76 tuổi đời duyên thế.

 

Là một người tuy ít được tiếp cận và hầu chuyện cùng Hòa Thượng lúc sinh thời nhưng có lẽ còn có diễm phúc hơn người chưa từng  được. Lấy đó làm niềm an ủi to lớn để rồi nhận đó làm kỷ vật vô giá, cất vào hành trang bước tiếp trên những quảng đường đời dốc tâm phụng sự đạo pháp và dân tộc. Hãnh diện như thế vì nhận thấy ra đó cũng chính là tâm nguyện, là hình bóng lung linh của Hòa Thượng từng thao thức, truyền lại trong sự nghiệp tiếp dẫn hậu lai. Thiền viện Phước Hoa ngày nay đã nói thay tâm nguyện ấy của Hòa thuợng mà thời gian trụ vững tương đồng tuổi Hạ Lạp. Công hạnh đó sâu dày ngang bằng với sự nghiệp hoằng hóa. Như vậy trách nhiệm thực thi việc hữu ích cho đạo pháp, lợi lạc quần sanh vẫn luôn được Hòa Thượng chu toàn trên hai vai trần thế, không chỉ là việc huân tu, đóng cửa giữ riêng mình chốn thanh tịnh để tăng trưởng lực cho riêng bản thân mình

 

               Ngưỡng bạch Giác Linh Hòa thượng !

 

               Tuy không phải là nhà văn, là nghệ sĩ đa tài, nhưng trong tâm khảm con từ lâu đã có một hình ảnh cơ cực trong chốn trần ai, một mình  lăn lộn với biết bao chướng duyên. Từ bên này đèo Hải Vân, buông bỏ tất cả đề xuôi Nam tìm cầu đạo cả, để phước báu ngàn đời gặp được bậc ân sư khả kính là Hòa thượng Thích Thanh Từ, người đang miệt mài khơi dậy dòng thiền Yên Từ ngàn xưa. Đoạn đường dài ấy trong lưu sử mai sau chắc chắn sẽ là điểm nhấn quan trọng nhất trước ngưỡng cửa đến với cửa Thiền. Cũng vậy, Thiền Viện Phước Hoa lúc Hòa Thượng mới khai sơn, những nhát cuốc còn vương đượm mồ hôi cơ nhọc, đổ xuống từng thớ đất khô cằn của miền đông đầy nắng và gió,. Đó là giai đoan khó khăn nhất của Phật giáo, chung cùng số phận của đất nước thời bấy giờ. Từ quốc lộ 51 nhìn vào hãy còn xa thăm thằm, từng bụi cây ngọn cỏ chưa nhường bước chân trần của bậc chân tu. Máu tứa bàn chân, mồ hôi rửa trôi sạch cơ nhọc từng đêm về trên chiếc bồ đoàn đơn sơ nơi tịnh cốc mà âm thầm nuôi chí nguyện thiết tha.

 

              Ngày Hòa Thượng xuôi tay nhắm mắt, trả lại trần thế nhục thân vay mượn suốt 76 năm trường để thực hiện giấc mơ tu học và hoằng hóa, về an nghỉ bên cõi Phật. Bản thân con không nhìn nhục thân Hòa thượng trong tang lễ thế gian, mà chỉ nhìn một Thiền Viện Phước Hoa ngày  Hòa thượng ra đi. Ở đó đã nói lên tất cả !

 

 Đó là suy tư trộm nghỉ của cá nhân, một người đứng bên ngoài Thiền Viện Phước Hoa, biết ít nhiều về hành trạng và công lao của Hòa thượng. Nhưng đó là động lực, là gương soi lối cho mình đi lên ngay thằng có lời đáp từ cõi nhân sinh, để khắc đậm đôi phần công ơn ấy. Cũng vì thế, khi có người nói rằng Thiền Viện Phước Hoa bây giờ đang dần xa, đường đi ngày càng trở nên khúc khỉu (dù đường cao tốc đã bắc ngang nhà !). Tôi vẫn nghĩ rằng cái xa, cái khúc khỉu ấy là vòng xoay của vô thường tác động, chẵng làm ảnh hưởng là bao đối với công ơn to lớn, cơ nhọc ngày nào Hòa Thượng đã chắt chiu gầy dựng và xây từng viên gạch mới cho nền móng của Thiền Viện ngày nay. Những ai kéo đường dài thêm xa, sẽ đắc tội với lương tâm mình. Khi một trong Tứ Đại Trọng Ân mình luôn gìn giữ và khắc ghi thì chẵng có trở ngại nào làm hao mòn bước chân chính đáng ấy cả. Lấy đó làm vốn liếng ứng xử với cuộc đời, ai hiểu thì phước báu mình đã đến, ai không hiểu thì vẫn phải chấp nhận trả nợ với đời.

 

              Tưởng nhớ Hòa Thượng, đối với một người đứng ngoài  Thiền Viện Phước Hoa như con mà còn có biết bao ưu tư khoắc khoải với ít nhiều kỷ niệm bên cạnh Hòa Thượng, huống chi tăng chúng Thiền Viện, những ngưởi trực tiếp, nhận tiếp trách hậu lai của Hòa Thượng hôm nay, từng ngần ấy thời gian sống, tu học và lớn lên bên cạnh người, sẽ còn nhớ thương thăm thẳm biết nghìn trùng !

 

               Kỷ niệm một năm ngày Hòa Thượng viên tịch, không biết con dùng từ Tiểu Tường có sai với cách gọi của hệ thống Thiền Viện hay không, Còn lại tất cả là tấm lòng con xin hướng đến Giác Linh Hòa Thượng.

 

 

 

Giác Đạo - Dương Kinh Thành





 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/10/2010(Xem: 2079)
Một vị thương gia lập nghiệp từ tay trắng, sau kiếm được rất nhiều tiền nhưng vì buôn bán trong thời kinh tế không ổn định, khiến anh ta trở nên phá sản, nợ nần chồng chất. Nghĩ mãi không tìm ra cách giải quyết, anh ta bèn ra bờ sông tự tử. Vào lúc canh ba một đêm nọ, anh ta đến trước bờ sông, bỗng nhiên nhìn thấy một thiếu nữ đang ngồi khóc thảm thiết, anh bèn đến hỏi cô gái: - Có chuyện gì mà đêm hôm khuya khoắt cô ngồi khóc một mình ở đây?
16/10/2010(Xem: 3311)
Hàng ngàn năm trước tây lịch, khi thổ dân Dravidian còn ngự trị khắp lãnh thổ Ấn Độ cổ thời, vùng phía tây Hy Mã Lạp Sơn là lãnh địa của rắn. Vốn là vùng rừng núi bạc ngàn nằm trên nóc nhà thế giới, Hy Mã Lạp Sơn là nơi thâm u bí hiểm với sơn lam chướng khí trùng trùng và vô số loài thú dữ cư ngụ sẵn sàng lấy mạng người để làm thức ăn. Thời đó, thổ dân Dravidian không có đủ vũ khí hùng mạnh để chống cự với các loài mãnh thú và tự bảo vệ mình. Từng người vào rừng săn tìm thức ăn đã không thấy trở về. Độc địa nhất không phải chỉ là những hổ, cọp, gấu, beo nằm lồ lộ chờ mồi bên bờ suối, dưới gốc cây hay trong khe đá, mà ngay bên dưới lớp lá khô mục của đường rừng là những loài rắn nguy hiểm chực chờ bước chân người.
16/10/2010(Xem: 2657)
Trong thiền không có đầu đuôi, khúc chiết, lý luận. Nó đập vỡ lý luận. Đó là thế giới lý tưởng của câu thơ lớp ba mồ côi luận lý. Thế giới của những câu cuối lấc cấc, mẹ gà con vịt. Đừng bắt tôi giải thích; hãy lang thang với tôi trong câu cuối của dăm ba chuyện thiền nổi tiếng.
16/10/2010(Xem: 2814)
Trong đời, tôi đã thấy mặt trăng lần nào chưa? Nhìn trăng, tôi nhìn cả đời. Nhưng thấy trăng, tôi không dám nói chắc. Khi tôi nhìn trăng trước mắt, tôi nghĩ đến trăng nửa khuya loáng thoáng trên tàu lá chuối sau vườn cũ. Tôi nghĩ đến đèn trung thu lúc nhỏ. Tôi nghĩ đến cái chõng tre giữa sân trên đó, ngày xưa, tôi nằm nhìn mây bay. Nhìn trăng, tôi không thấy trăng. Chỉ thấy lá chuối, chõng tre. Thấy cả tôi với trẻ con hàng xóm nô đùa. Có lần tôi trốn tìm với chúng nó, bị lộ, tôi nhảy bừa vào bụi tre, bất ngờ có đứa con gái đã ngồi sẵn trong đó. Tôi sợ hoảng, toan vọt ra thì nó kéo tay tôi lại, ấn vai tôi xuống, cười đồng lõa. Trong loáng thoáng của cây lá, tôi thấy hai cái răng cửa của nó sáng ngời ánh trăng. Bây giờ, nhìn trăng non, tôi thấy cái miệng và hai cái răng. Tựa như hai cái răng của nó phát ánh sáng và in hình miệng nó lên bầu trời.
16/10/2010(Xem: 2172)
Ngày xưa, một nhà quan lang họ Cao có hai người con trai hơn nhau một tuổi và giống nhau như in, đến nỗi người ngoài không phân biệt được ai là anh, ai là em
16/10/2010(Xem: 2034)
Ngày xưa, vào hồi Tây Sơn khởi nghĩa, có một chàng trai người vùng Đồng Nai, có tài cả văn lẫn võ, đã vung gươm hưởng ứng sự bất bình của thiên hạ.
16/10/2010(Xem: 1857)
Ngày xửa... Ngày xưa... Có một cô bé rất giàu lòng yêu thương. Cô yêu bố mẹ mình, chị mình đã đành, cô còn yêu cả bà con quanh xóm...
15/10/2010(Xem: 2249)
Một danh tướng về già muốn tặng thanh kiếm báu của mình cho một tướng quân ở xa. Ông giao trọng trách đó cho một gia nhân, cũng là một tay kiếm xuất chúng. Cẩn thận như vậy, ông vẫn không yên lòng, nghĩ rằng kiếm sĩ này chưa chắc đã đủ chín chắn để giữ kiếm không bị cướp dọc đường. Thanh kiếm không những quý về chất thép mà còn quý vì chuôi kiếm có nạm vàng và ngọc vua ban.
13/10/2010(Xem: 1705)
Có hai vợ chồng một ông già tên là Dã Tràng. Trong vườn họ có một hang rắn. Thường ngày làm cỏ gần đấy, ông già vẫn thấy có một cặp vợ chồng rắn...
13/10/2010(Xem: 3286)
Vào Thứ Sáu, ngày 8 tháng 10 năm 2010, Ủy Ban Giải Nobel Hòa Bình Na Uy đã công bố giải Nobel Hòa Bình năm 2010 được trao cho Lưu Hiểu Ba. Lưu Hiểu Ba, sinh năm 1955 tại thủ phủ Trường Xuân của tỉnh Cát Lâm ở đông bắc Trung Quốc, là nhà tranh đấu bất bạo động cho tự do, dân chủ và nhân quyền tại Trung Quốc. Ông đã từng tham gia phong trào sinh viên đấu tranh trong biến cố Thiên An Môn năm 1989 và sau đó liên tục bị sách nhiễu, quản chế tại gia và tù tội. Ngày 8 tháng 12 năm 2008, ông đã bị bắt vì cùng một số nhà tranh đấu dân chủ và nhân quyền Trung Quốc công bố Hiến Chương 2008 đòi xóa bỏ chế độ cai trị độc đảng để tiến tới một xã hội dân chủ cho Trung Quốc. Hiến Chương 2008 cho đến nay đã có hơn 8,500 người tham gia ký tên. Vì Hiến Chương 2008, Lưu Hiểu Ba đã bị chính quyền cộng sản Trung Quốc kết án 11 năm tù. Hiện ông vẫn còn ngồi tù ở Liễu Ninh, Trung Quốc.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567