Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Ngày xấu

02/10/201509:28(Xem: 3366)
Ngày xấu
phong canh 3NGÀY XẤU 
Hương Đức


 Hôm nay tôi đến nhà người anh họ để dự đám giỗ mẹ của anh ấy (cũng là mợ của tôi), nhìn lên bàn thờ thấy khói hương nghi ngút, thức ăn, trái cây bày cúng ê hề, lòng tôi bỗng nhói lên một niềm cảm xúc.

Thời gian trôi nhanh quá, mới đó đã mười hai năm. Nhớ lúc cha tôi vừa mất, khi chuẩn bị tẩn liệm cho người, mợ ấy đến nhìn mặt cha tôi lần cuối rồi khen rằng cha tôi chết không mất một miếng thịt (cha tôi mất đột ngột do tai biến mạch máu não), mấy tháng sau bắt đầu đến mợ ấy. Thế nhưng căn bệnh ung thư đại tràng đã hành hạ thân xác mợ gần một năm trời khiến mợ như chỉ còn da bọc xương. 
 
Vì tôi là thầy thuốc nên khi nào cần, con trai út của mợ – người trực tiếp nuôi mợ ấy – báo cho tôi biết, tôi sẽ đến tiêm thuốc bổ, truyền dịch trợ sức, cứ như thế kéo hết tháng này qua tháng nọ mãi cho đến trưa ngày 23 tháng 7 âm lịch năm đó thì mợ phát mệt dữ dội. Sợ mẹ mất vào ngày 23 (là một trong những ngày mà dân gian cho là xấu, đến mức “đi chơi cũng lỗ nữa là đi buôn”), thế là các người con của mợ vội vã đến nhà nhờ tôi tiêm thuốc, truyền dịch cho mẹ cốt sao cho bà qua khỏi ngày “xấu” đó.

Tôi thì vốn chẳng tin vào cái chuyện ngày xấu, tốt, tôi chỉ nghĩ ngày nào cũng là ngày của trời đất, như cha tôi thường dạy, nhưng ‘nghĩa tử là nghĩa tận”, lại thân tộc nhờ cậy, thôi thì cứ làm theo yêu cầu của họ, kẻo không lại mang tiếng là thằng ăn ở bạc tình. Khi tôi chuẩn bị dụng cụ, thuốc men xong, vừa định lên xe đi thì người con trai cả của mợ ấy đang định cư ở nước ngoài bỗng gọi điện về, anh ấy nói tự nhiên thấy nóng ruột quá nên gọi về hỏi thăm sức khỏe của mẹ anh, tôi bảo mẹ anh sắp mất, anh ấy khóc òa lên trong điện thoại, tôi nghe mà chảy nước mắt theo. 
 
Thật tội, vì miếng cơm manh áo phải bỏ xứ, rứt ruột ra đi, bây giờ cách nửa vòng trái đất làm sao kịp về với mợ trong phút giây sinh ly tử biệt này. Một lát sau, anh ấy trấn tỉnh lại, dặn tôi cố lo cho mẹ anh trong giờ phút cuối, ơn nghĩa này anh không bao giờ quên, anh còn bảo tôi nhớ ghi lại lời dặn dò, hình ảnh của mẹ anh trước lúc ra đi. Tôi nhận lời giúp anh ấy.

Thế là ngoài túi dụng cụ, thuốc men, tôi còn phải mang cả chiếc camera cũ kỹ và đồng thời cũng không quên mang đĩa VCD “bửu bối” theo. Sau khi tiêm thuốc trợ lực, truyền dịch được gần một giờ, mợ ấy tỉnh táo trở lại, ra dấu nhận biết tôi, mợ thì thào hỏi con tôi mạnh không (tôi có đứa con gái sáu tuổi, hay bệnh, mợ nhớ chuyện bệnh tật của nó nên hỏi thế), tôi trả lời xong liền lấy máy quay phim ra, nói: Mợ có nhắn gì thì nói đi, ngày mai con sẽ gởi phim này qua Mỹ cho anh Hai”. 
 
Mợ ấy trả lời : “Đừng có gởi sớm, đợi quay xong đám ma của mợ rồi gởi luôn cho đỡ tốn tiền”. Tôi nghe mợ nói mà xúc động lạ thường, thương người đàn bà tằn tiện cả đời để lo cho con ăn học, bây giờ đến giây phút cuối của cuộc đời vẫn sợ tốn tiền con cháu. Còn nhớ thời chiến tranh, gia đình mợ tản cư ở nhờ nhà của gia đình tôi, cậu tôi thì đi tập kết ra Bắc, bặt tăm bặt tích, bỏ mặc bầy con cho mợ quán xuyến. 
 
Mợ ấy, lúc đó, lớp mua bán ngoài chợ, lớp nhận may quần áo cho khách, lớp trồng đồ hàng bông bán, bươn chải không nề cực khổ để kiếm tiền lo cho bốn đứa con ăn học tới nơi, tới chốn. Tuy có tiền nhưng không khi nào thấy mợ dám mua bánh trái, thịt thà về ăn, tôi chỉ thấy mợ thường ra mé sông câu vài con cá lòng tong, cá chốt rồi kho qua quít ăn với các loại rau hoang dã hái trong vườn. Tất cả tiền bạc có được mợ đều dành dụm gởi cho con. 
 
Biết tánh hay tiện tặn của mợ, tôi hứa sẽ làm theo lời mợ dặn rồi hỏi mợ có nhắn dạy gì mấy đứa con không để tôi ghi hình. Mợ ấy nhìn tôi với ánh mắt xa xăm rồi nói: “Dạy cả đời rồi”. Sau đó mợ nhắm mắt làm thinh, hai giọt lệ lặng lẽ tuôn ra từ khóe mắt. Tôi bèn lục túi xách, lấy đĩa VCD đã đem theo – đĩa này thâu toàn tiếng niệm Phật A-di-đà của một vị cao tăng – tôi đưa cho các người con của mợ bảo họ mở cho mợ nghe, đĩa mở được môt lúc, tôi thấy nét mặt của mợ thanh thản dần theo tiếng niệm Phật. 
 
Đến khoảng 8 giờ tối, mợ ấy bỗng mở mắt nhìn những người thân xúm xít chung quanh rồi nói: Đã chết hai bàn chân rồi, không còn cảm giác nữa. Lát sau, mợ lại bảo đã chết đến đầu gối và cứ thế, mợ báo cho thân nhân biết cái chết đang chiếm dần cơ thể của mình. Đến khoảng mười giờ đêm, mợ bỗng nhìn tôi, bảo: Chết đến thận rồi, đau quá Đức ơi! Tôi chỉ biết nắm tay mợ động viên, thuốc men gì nữa trong phút giây này, tôi kề tai mợ dặn: Mợ gắng niệm Phật để về với Phật. 
 
Lúc gần 12 giờ, mợ lại bảo chết tới ngực rồi, khó thở lắm. Tôi lại động viên mợ niệm Phật, đôi môi mợ mấp máy theo tiếng niệm liên tục trong đĩa VCD, A-di-đà Phật, A-di-đà Phật. Qua mười hai giờ khuya mợ vẫn còn sống, hơi thở tuy còn nhưng đã mê man không phản ứng gì với những tác động bên ngoài. Đúng một giờ ngày 24/7, dịch truyền hết, tôi bèn hỏi những người con của mợ có muốn tiếp tục điều trị nữa không, họ bảo tôi đã làm đủ theo yêu cầu, không cần gì nữa. 
 
Tôi hiểu mình đã hết nhiệm vụ nên thu dọn dụng cụ, thuốc men, sau đó đến nhìn mặt mợ đang mê man lần cuối rồi cáo từ ra về. Trên đường về, tôi suy nghĩ, thật lạ lùng cho sự bình thản trước cái chết của mợ tôi, suốt mấy chục năm trong ngành y, tiếp xúc rất nhiều với những người hấp hối nhưng chưa bao giờ có người nào có thể bình thản mô tả cái chết đang tới từng phần cơ thể của mình như mợ ấy. Y như một người đóng kịch trên sân khấu, nhưng vở kịch này người diễn viên không bao giờ có thể trở lại với đời thường.

Mợ tôi mất lúc ba giờ sáng ngày 24 tháng 7, sáng đó tôi trở vào dự đám tang và tiếp tục ghi hình buổi tang lễ. Sau tang lễ, tôi gởi phim đã quay cho người con cả của mợ ở nước ngoài, anh ấy xem xong gọi điện về cám ơn tôi, anh ấy khóc rất nhiều, bảo rằng xem một lần cho biết chứ chắc không dám xem lại lần thứ hai, rồi anh lại khóc. Đột nhiên, đang sụt sịt trong điện thoại, anh ấy bỗng hỏi tôi với giọng bực bội: “ .. thằng nào thọc huyết heo ngay lúc tẩn mẹ tao vậy, làm ăn gì kỳ quá, heo la dậy trời trong phim”. 
 
Xứ tôi là vậy đó, trong nhà người chết vừa thẳng cẳng thì ngoài sân đã vật heo, thọc huyết để chuẩn bị đãi đằng. Người đi đám ma dù không muốn ăn vẫn bị lôi kéo ngồi vào bàn “ăn” một chút cho có “cái tình”. Thiệt kỳ cục hết sức, trong kia kẻ khóc than, vật vã, ngoài này người nhồm nhoàm ăn nhậu, chẳng ra làm sao cả…. Không biết đến bao giờ cái tập quán tệ hại đó mới bị dẹp bỏ cho đỡ chướng con mắt.

… Thế là tôi đã giúp họ hàng kéo dài thọ mạng của thân nhân, không phải chết trúng vào ngày “xấu” theo ý của họ. Sau đám tang tôi nhận được nhiều lời cám ơn và quà tặng. Chuyện ngày xấu, tốt thế nào tôi không quan tâm vì không tin vào chuyện đó; nhưng chuyện xảy ra cho thân nhân người chết sau đám tang thì tôi thường chú ý vì trong lời giảng dạy của Đức Phật, Ngài khuyên thân nhân người đã khuất nên tạo công đức lành để hồi hướng cho họ, Ngài còn bảo sự hồi hướng đó, người chết chỉ hưởng được một phần rất nhỏ, còn người sống được hưởng phước gấp nhiều lần từ việc làm của mình. 
 
Chuyện này liên quan đến người con trai út của mợ tôi, vốn là đệ tử lâu năm của thần lưu linh, anh ấy rất khoái làm thịt chó để chế biến món nhậu. Lẽ ra sau khi mẹ mất, anh phải cố gắng tạo phước lành, ăn chay, phóng sinh để hồi hướng cho thân nhân đã khuất như lời vị sư trụ trì hướng dẫn cho những người con khi đến chùa cúng tuần thất cho mợ, thì anh ta lại tích cực giúp hàng xóm hạ “cờ tây”. 
 
Sau khi mợ tôi mất khoảng một tháng, nhân có ông hàng xóm của anh ấy lợp lại mái nhà, ông ta cũng thuộc vào hàng đệ tử có đẳng cấp của thần nhậu, lại cũng là dân “hảo” thịt chó, ông ta tậu được con chó tơ mập mạp để làm thịt đãi mấy người bạn đến phụ lợp nhà. Thế là người con trai út của mợ tôi quên cả việc mình đang trong thời kỳ tang chế, ra tay giúp nhấn nước con chó cho đến chết rồi phụ ra thịt, ướp gia vị, bắc bếp lên nấu một nồi thơm phức. 
 
Lúc chờ thịt chín, anh ta leo lên nóc nhà trước tiên rồi bảo mấy người bạn lên theo, tranh thủ lợp nhanh nhanh để còn xuống nhậu. Không ngờ, chẳng biết do sơ ý hay do mải nghĩ đến nồi thịt chó đang bốc mùi thơm lừng mà anh ta ngồi lên cây đòn tay đã bị ải mục một bên; cây gãy, anh ta rớt từ nóc nhà xuống, xui xẻo lại rớt trúng cạnh bàn nằm bên dưới rồi văng xuống đất bất tỉnh nhân sự. Những người đàn ông có mặt ở đó xúm nhau kẻ giựt tóc mai, người bấm huyệt cho anh tỉnh lại, có người còn xoa bóp dầu nóng ở ngực. 
 
Anh ta đã tỉnh lại sau một hồi được săn sóc bởi mấy tay “nghiệp dư” với hai cái xương sườn bị gãy, mũi nhọn xương gãy do bị xoa bóp đã đâm vào phổi gây lủng phổi, phải đưa đi bệnh viện huyện cấp cứu. Ngày tôi đến thăm, thấy anh ấy ngồi thù lù trên giường bệnh, tay cầm chai đựng máu dẫn lưu từ phổi ra, tôi nói đùa: Bộ ở nhà ôm chai ba xị chưa đã sao lên tới đây còn ráng kiếm chai ôm nữa vậy cha? Anh ta bật cười rồi nhăn mặt vì đau…

Sau mấy tháng điều trị, vết thương, sức khỏe vừa ổn, anh ấy lại tiếp tục nhậu và tiếp tục hạ “cầy tơ”, đến ngày cúng giáp năm của mợ tôi, sau một chầu nhậu thịt chó, anh ta bắc chiếc thang xếp rồi leo lên thay một bóng đèn điện hỏng, không may chốt gài của thang bị tuột, thang ngã, anh ta bị té theo, chân trái bị gãy ở xương cẳng chân, phải chở đi bệnh viên cấp cứu và bó bột.

Thấy anh ta bị tai nạn hoài, mấy người lớn tuổi trong xóm bảo tại anh ta hay giết chó nên bị quả báo. Tôi thì không nói gì nhưng không lấy làm lạ về những việc đó, nhân nào quả đó mà thôi.

Đến cuối năm đó, lúc đang cúng đưa ông táo về trời, tôi lại “được” nhờ đi “kéo” một người sắp chết cho qua khỏi ngày 23. Người sắp chết là cha chồng của cô giúp việc gia đình tôi – cô ấy đã phụ giúp nuôi dưỡng mẹ của chúng tôi bị di chứng tai biến mạch máu não hơn mười hai năm, mẹ chúng tôi tuy đã mất nhưng gia đình chúng tôi và cô ấy vẫn liên lạc thường xuyên, chúng tôi luôn xem cô ấy như con cháu trong nhà – nên việc nhờ cậy này khó có thể từ chối, tôi vội soạn thuốc men, y cụ vào túi rồi đi cùng cô ấy. 
 
Khi đến nơi, các người con của người sắp mất đều đã có mặt, chỉ thiếu anh con trai út (là chồng cô giúp việc) đang trên đường từ thành phố về. Tôi kiểm tra thì mạch của người sắp chết hầu như không bắt được, huyết áp không đo được, tim đập nhanh, nhỏ, thở lấy hơi lên, phổi ứ đầy dịch, với tình huống này chỉ trong vòng hai giờ nữa là ông ấy sẽ ra đi. 
 
Lúc đó, người con trai út vừa về tới, một mặt tôi bảo cô giúp việc ngồi kế bên cha chồng niệm Phật và nhắc cha chồng niệm Phật theo, một mặt tôi nói với các người con và vợ của ông ấy về tình hình sắp ra đi của ông, khuyên họ bàn bạc thống nhất về việc có nên tiêm thuốc kéo dài thêm sự sống không, và tôi cũng nói lên quan điểm của mình về ngày xấu hay tốt. 
 
Sau một hồi hội ý, người con trai cả đến bảo với tôi, họ đã thống nhất không tiêm thuốc “hồi sinh”, trời bảo đi hồi nào thì đi hồi ấy. Nhận được quyết định đó, tôi rất vui mừng dù rằng mình bị “thất nghiệp”. Và ông ấy mất vào 11 giờ 30 ngày 23 tháng Chạp năm đó.

Qua giao tiếp lâu năm, tôi biết gia đình bên chồng của cô giúp việc là gia đình có truyền thống thờ Phật lâu đời, tôi hay gặp cha chồng cô ấy đi chùa, vị trụ trì ngôi chùa lớn trong xã rất quý trọng ông ấy, lệ thường, sau khi ông ấy đến chùa đó lễ Phật, do nhà xa, tuổi lại cao, thầy trụ trì hay trực tiếp chở hoặc cho người đưa ông ấy về nhà sau lễ cúng. 
 
Lúc còn khỏe, ông ấy có chân trong hội chữ thập đỏ của ấp, nhà nào có tang ma ông thường đến gúp đỡ rất nhiệt tình, hễ có thân nhân vừa mất là người ta nghĩ ngay đến ông ấy. Con cái ông ấy theo gương cha nên ăn ở hiền lành, hay giúp đở hàng xóm..

Ngày tang lễ của ông ấy, những người con đã tổ chức một lễ tang chưa từng có tiền lệ ở xã nhà là cúng kiếng, chiêu đãi toàn bằng thức ăn chay. Việc làm đó tạo hai phản ứng trái chiều, những người thích ăn nhậu thì chê đãi ăn gì toàn tàu hủ với rau củ, họ nói mỉa mai, đãi như thế, xong đám chắc lời to, còn những người lớn tuổi, Phật tử thì hết lời khen những người con biết tạo phước lành cho cha…

Sau đám tang, những người con của ông ấy thường đi chùa cúng dường, cầu nguyện, lại hay tổ chức lễ phóng sanh, họ dùng tiền phúng điếu xây được một cây cầu bê-tông nhỏ bắc qua kênh trong xóm… Tất cả những việc làm đó họ đều hồi hướng cho cha mình khi cúng nguyện trong các tuần thất ở chùa.

Nhân nào thì quả đó, nửa năm sau, đứa cháu nội đích tôn của ông ấy trúng tuyển vào đại học, cả họ hàng đều mừng, đó là người đầu tiên của dòng họ đậu đại học, bởi họ xuất thân từ tầng lớp nông dân, chuyện khoa cử luôn xa tầm tay với ông bà, cha mẹ. 
 
Ngoài ra, người con trai út của ông ấy sau bao năm xa nhà, làm thuê trên thành phố, đã tìm được việc làm tại địa phương với mức thu nhập tương đương trên thành phố, làm việc gần nhà, anh có điều kiện săn sóc mẹ già, lo cho gia đình, vợ anh ta thì khỏi phải nói, vui mừng khoe với chúng tôi với nụ cười rạng rỡ trên môi… Và còn nhiều việc may mắn khác nối tiếp đến với những người con khác của ông ấy.

Đôi lúc, chợt nghe ai đó nhắc tới những ngày mùng 5, 14, 23, tôi lại nhớ đến hai câu chuyện trên, một dòng họ được tôi dùng thuốc men giúp cho thân nhân không mất vào ngày “xấu”, nhưng với lối sống theo dục lạc thế gian, không biết tạo phước, hay sát sanh nên tai họa đến hoài, còn một dòng họ chấp nhận người thân ra đi theo lẽ tự nhiên của trời đất, mất đúng vào ngày dân gian cho là xấu nhưng họ biết sống theo lời Phât dạy, gieo phước lành, phóng sanh nên phước liên tục đến. 
 
Ngẫm lại, họa hay phước không phải do ngày tháng xấu, tốt tạo ra; họa hay phước là do nhân quả mà có, gieo nhân lành thì có quả ngọt, nhân xấu thì quả đắng, không thể khác được. Chỉ có vấn đề là nó đến nhanh hay chậm mà thôi.  
 
(Văn Hóa Phật Giáo 185)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
29/05/2021(Xem: 21222)
Thiền sư Minh Hoằng Tử Dung, Tổ thứ 34 của Thiền Phái Lâm Tế, đến Việt Nam truyền giáo vào cuối thế kỷ 17, đệ tử nối pháp của Ngài là Thiền Sư Thiệt Diệu Liễu Quán, Sơ Tổ của Phái Lâm Tế Liễu Quán tại Việt Nam. Thời Pháp Thoại thứ 240 của TT Nguyên Tạng từ 6.45am, Thứ Bảy, 29/05/2021 (18/04/Tân Sửu) 🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️ “Vạn pháp qui nhất, nhất qui hà xứ? (Muôn pháp về một, một về chỗ nào?) “ (Câu Thoại Đầu của Thiền Sư Minh Hoằng Tử Dung trao cho đệ tử Thiệt Diệu Liễu Quán tham cứu trong 8 năm ròng rã) 💐🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌼🌺🍀💐🌼 💐🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌼🌺🍀💐🌼 Múi giờ : pháp thoại của TT Trụ Trì Thích Nguyên Tạng (trong thời gian cách ly vì đại dịch Covid-19) về chư vị Tổ Sư Ấn Độ, Trung Hoa, Việt Nam…) - 06: 45am (giờ Melbourne, Australia) - 12:45pm (giờ Cali, USA) - 03:45pm (giờ Montreal, Canada) - 09:45pm (giờ Paris, France) - 02:45am (giờ Saigon, Vietnam) 💐🌹🥀🌷🍀💐🌼🌸🏵️🌻🌼💮🍂🍁🌾🌱🌿🍃 Youtube: Tu Viện Quảng Đức (TT Thí
03/05/2021(Xem: 4531)
Sư Giác Phổ định lấy vé cho tại hạ về Huế, nhưng ông bạn “nhong nhong”, buộc phải lên Daklak đi xe với anh em, đâu được ưu tiên biệt đãi thế! 6g chiều vừa xuống sân bay, sư đã đón tại sảnh; Tịnh xá Ngọc Quang lẳng lặng trong màn đêm; đại hồng chung tiễn nhân sinh vào cõi mộng.Bận rộn bao việc để chuẩn bị mai lên đường, thế mà đích thân sư bê lên ly bột.
14/04/2021(Xem: 10657)
Đã hơn 45 năm kể từ 1975, nhắc lại chuyện vượt biên quả là xưa như trái đất, xưa quá rồi diễm, nhiều người chẳng muốn nghe, đôi khi còn trách, chuyện qua rồi hãy cho vào dĩ vãng nhắc lại làm gì cho thêm buồn, “quá khứ đã qua, tương lai chưa đến, hãy nghĩ và sống với hiện tại”. Thế nhưng đâu ai hiểu cho rằng, hiện tại của tôi bây giờ chính là phải viết bài cho ngày 30/4 để đăng báo, mà 30/4 vấn đề tuy cũ kỹ nhưng muôn thuở vẫn luôn có giá trị vì đó là lịch sử và chuyện vượt biên cũng đóng góp trong phần lịch sử đó. Luẩn quẩn là như thế. Và biết đâu, giữa khi mọi người đã quên thì tôi nhắc lại cho mọi người nhớ, và biết đâu giúp các thế hệ sinh sau đẻ muộn hiểu chút ít về lịch sử nước nhà trong giai đoạn đau thương của đất nước, thống nhất lãnh thổ nhưng không thống nhất lòng người đã để lại hận thù, chia cách không biết khi nào mới hàn gắn được và là nguyên nhân tại sao cha mẹ ông bà chúng lại lưu lạc xứ người và ra đi làm sao. Cây có cội, nước có nguồn, là con người ai cũng muốn biết c
03/02/2021(Xem: 4122)
Sinh ra tại Edinburgh (Scotland) nhưng Scott Neeson đã chuyển tới Australia định cư khi mới 5 tuổi. Ông là con trai của một lao công và một quân nhân. Năm 17 tuổi, Scott quyết định bỏ học và sống dựa vào tiền trợ cấp thất nghiệp. Nhờ chương trình hỗ trợ của chính phủ, ông được nhận vào vào một rạp chiếu phim là nhân viên kỹ thuật phòng chiếu. Câu chuyện nhẽ ra sẽ kết thúc tại đây nếu không phải Scott là người khá tham vọng và tràn đầy nhiệt huyết. Người đàn ông này kiên trì leo lên từng bậc thang trong ngành điện ảnh, từ một nhân viên phát hành phim đến nhân viên kinh doanh phim. Cuối cùng, mọi công sức của Scott cũng được đền đáp khi ông được bổ nhiệm là Giám đốc Chi nhánh Australia của hãng 20th Century Fox (nay là 20th Century Studios thuộc Disney).
30/01/2021(Xem: 6073)
Thời gian gần đây có khá nhiều nhà văn quay về với đề tài lịch sử. Sự đi sâu vào nghiên cứu cùng những trang viết ấy, họ đã tái hiện lại một triều đại, hay một giai đoạn lịch sử với góc độ, cái nhìn của riêng mình. Tuy nhiên, không phải nhà văn nào cũng thành công với đề tài này. Gần đây ta có thể thấy, Hoàng Quốc Hải với hai bộ tiểu thuyết: Tám triều nhà Lý, và Bão táp triều Trần, hay Hồ Qúy Ly của Nguyễn Xuân Khánh…Và cách nay mấy năm, nhân kỷ niệm lần thứ 40, ngày thành lập Báo Viên Giác (Đức quốc) Hòa thượng Thích Như Điển đã trình làng cuốn tiểu thuyết lịch sử: Mối Tơ Vương Của Huyền Trân Công Chúa. Thật ra, đây là cuốn (tiểu thuyết) phân tích, lời bàn về lịch sử thì chính xác hơn.
28/01/2021(Xem: 7224)
Hòa thượng họ Hồ, húy Đắc Kế, Pháp danh Nguyên Công, tự Đức Niệm, bút hiệu Thiền Đức, thuộc dòng Lâm Tế đời thứ bốn mươi bốn, sinh năm Đinh Sửu (1937) tại làng Thanh Lương, phủ Hòa Đa, tỉnh Bình Thuận, nay là xã Chí Công, huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận. Nhờ túc duyên tiền kiếp, nên mặc dù không ai khích lệ thúc đẩy, Ngài vẫn một mình cố công tìm đường hướng về với đạo lý giác ngộ. Khởi đầu, Ngài xin xuất gia với Hòa Thượng Thích Minh Đạo tại chùa Long Quang, Phan Rí năm 13 tuổi. Sau đó, trên đường tầm sư học đạo, Ngài cầu học với Hòa thượng Trí Thắng chùa Thiên Hưng và Hòa Thượng Viện chủ chùa Trùng Khánh ở Phan Rang, Hòa Thượng Thiện Hòa ở chùa Ấn Quang, Sàigòn, và Hòa Thượng Trí Thủ ở Phật Học Viện Hải Đức Nha Trang. Vào năm 1962, Ngài tốt nghiệp Cao Đẳng Phật giáo tại Phật Học Đường Nam Việt chùa Ấn Quang Sàigòn. Song song với Phật học, Ngài cũng c
27/01/2021(Xem: 14692)
Đức Đa Bảo Như Lai 🌻🌼💮🍂🍁🌾🌱🌿🍃 Thượng Tọa Thích Nguyên Tạng giảng: từ 6.45am, Thứ Sáu, 17/07/2020 (26/5/Canh Tý) Giải thích Nghi Thức Đảnh Lễ Tam Bảo do Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Trí Thủ (1909-1984) biên soạn và hành trì trong suốt cuộc đời của Ngài. 26/ ĐỨC ĐA BẢO NHƯ LAI Nhất thiết vô niết bàn Vô hữu niết bàn Phật Vô hữu Phật niết bàn Viễn ly giác sở giác Nhược hữu nhược vô hữu Thị nhị tắc câu ly. Nhất tâm đảnh lễ Quá khứ cửu viễn thành Phật Đa Bảo Như Lai. (1 lạy) Youtube: Tu Viện Quảng Đức (TT Thích Tâm Phương, TT Thích Nguyên Tạng, Melbourne, Australia)
25/01/2021(Xem: 28432)
Đức Phật Thanh Tịnh Pháp Thân Tỳ Lô Giá Na 🌼💐🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌼 Bạch Sư Phụ, hôm nay chúng con được học bài kệ thứ 23, đảnh lễ Đức Phật Thanh Tịnh Pháp Thân Tỳ Lô Giá Na, trong Nghi Thức Đảnh Lễ Tam Bả Thượng Tọa Thích Nguyên Tạng giảng: từ 6.45am, Thứ Ba, 14/07/2020 (24/5/Canh Tý) Giải thích Nghi Thức Đảnh Lễ Tam Bảo do Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Trí Thủ (1909-1984) biên soạn và hành trì trong suốt cuộc đời của Ngài. 23/ĐỨC PHẬT PHÁP THÂN TỲ LÔ GIÁ NA Chơn tánh hữu vi không Duyên sanh cố như huyễn Vô vi, vô khởi diệt Bất thật như không hoa. Nhất tâm đảnh lễ Thường tịch quang độ thanh tịnh diệu pháp thân Tỳ Lô Giá Na Phật. Nơi thể tánh chân như, Pháp hữu vi không thật, Duyên sinh, nên như huyễn; Vô vi không sinh diệt, Cũng không phải thật pháp, Như hoa đốm hư không. Một lòng kính lạy đức Phật Tì Lô Giá Na, Pháp Thân thanh tịnh nhiệm mầu, cõi Thường-tịch-quang. (1 lạy) Youtube: Tu Viện Quảng Đức (TT Thích Tâm Phương, TT Thí
20/01/2021(Xem: 7365)
Bồ Tát Hộ Minh khi ở trên cung trời Đâu Suất, đã quan sát thấy nơi dục giới cõi Ta bà, nhất là nơi Ấn Độ với rất nhiều mối Đạo, phân chia giai cấp trầm trọng, để hòng nô dịch, bóc lột và cai trị người dân, họ chạy theo Ngũ Dục (Tài, sắc, danh, ăn, ngủ) khiến con người bị thiêu đốt bởi lục dục thất tình tiêu cực của chính bản thân mình. Vì vậy, lòng bi mẫn vô lượng thúc giục Bồ Tát Hộ Minh đản sinh vào hoàng tộc Tịnh Phạn vương (trở thành Thái Tử Tất Đạt Đa). Với cung vàng điện ngọc, vợ đẹp con xinh, nhưng rồi cũng vì lòng Từ bi khi thấy, biết được “sanh. già, bệnh, chết” đang hoành hành gây khổ đau cho thế gian này, nhưng chưa ai giải cứu được, cả vua cha cũng đành bất lực. Ngài đành giả từ hoàng cung, để vào rừng sâu “tìm chân lý”. Mục đích đặc biệt là để “khai thị chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến” tức là “Mở bày cho mọi người sáng tỏ được tri kiến Phật”.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]