Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Gió thoảng mây trôi

02/05/201505:25(Xem: 3482)
Gió thoảng mây trôi

phong canh 2

Tôi gặp nàng tại Đại nhạc hội Việt Nam tổ chức tại Düsseldorf vào một mùa Giáng Sinh xa xưa nhưng không bao giờ quên được dù nàng lúc đó lẫn lộn giữa rừng người đông đảo. Nàng không xinh đẹp tuyệt trần, không ăn mặt lòe loẹt nổi bật, cũng không hoạt bát ồn ào gây sự chú ý của mọi người. Nhưng đối với tôi thì nàng thật đặc biệt với dáng vẻ đoan trang thùy mỵ, với đôi mắt dịu dàng và với sự im lặng của nàng trong một góc vắng của hội trường. Nàng đứng đó, tay cầm một cuốn sách nhỏ, vừa đọc vừa... gặm bánh mì, thỉnh thoảng lại ngước mắt lên nhìn xung quanh coi có gì “lạ” không rồi lại cắm đầu vào cuốn sách, cứ y như trong đó có chỉ chỗ giấu kho vàng vậy!

Hết giờ giải lao, buổi ca nhạc tiếp tục, nàng biến mất và tôi đã lùng sục cả hội trường nhưng không tìm thấy lại được màu áo trắng tinh khôi, mái tóc thề và đôi mắt nai ấy nữa. Tôi tự trách mình thậm tệ và nổi quạu lên cả đám bạn “ăn nhậu” ồn ào quanh mình.

Tôi lúc ấy, một thằng con trai mới lớn còn đang “cô đơn” giữa xứ lạ quê người sau khi được tàu Cap “vớt” lên trước mũi... cá mập. Sau vài năm chuyên cần học tập, tiếng Đức của tôi đủ để “nói móc” lại một vài người dân bản xứ có tật hay kỳ thị chủng tộc!

Đường học vấn rộng thênh thang nhưng đường tình duyên thì èo uột phát sợ. Tôi dễ dàng quen được với một Claudia, Jessica hay Anna nào đó nhưng chẳng biết tìm Mai, Lan, Cúc, Trúc, Thúy ở đâu. Ba má tôi thì một, hai căn dặn: “Ta về ta tắm ao ta, Dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn”. Thành ra, buổi văn nghệ văn gừng bữa đó là cơ hội để tôi về “tắm ao nhà”, tiếc rằng giữa rừng hoa Mai, Lan, Cúc, Đào ấy, nàng lọt vào mắt tôi như một vì... sao xẹt sáng rực lên rồi đột nhiên biến mất.

Sau buổi ca nhạc, trong đám bạn của tôi có vài đứa đã may mắn có số điện thoại của “em” để trao đổi tâm tình, riêng tôi thì thẫn thờ trở về “báo cáo” với “thân phụ” và “thân mẫu” rằng chưa tìm được cái “ao ta” nào thích hợp để... tắm cả!

Rồi thời gian dần trôi, tôi bù đầu vào với việc học hành và kiếm tiền để đi chơi cho biết đó biết đây, hình dáng nàng nhạt nhòa theo năm tháng. Quanh tôi toàn là mắt xanh, tóc vàng đầy quyến rũ và tôi hoàn toàn chẳng thiết tha gì nữa đến chuyện: “Ta về ta tắm ao ta”. Rồi chuyện gì đến phải đến; tôi sa ngã trong “ao người” và cuối cùng phải kết hôn với một cô nàng mắt xanh, tóc nâu làm ba má tôi buồn quá vì cô con dâu chẳng biết nói gì với họ ngoài chữ “Hallo!”, “Wie geht's?” Và lâu lâu khi ba má tôi đến thăm toàn được “đãi” ăn... bánh mì đến nổi mụn. “Tóc nâu” tặng cho tôi hai nhóc tì dễ thương nhưng tình yêu của tôi càng ngày càng phai nhạt. Khoảng cách giữa chúng tôi cứ rộng ra vì tôi chẳng quên được... nước mắm và bún riêu, vả lại tối ngày phải đoán ý “Tóc nâu” muốn gì, chiều chuộng hầu hạ như một nô lệ vợ không phải là cá tính của tôi. Vả lại, cứ “ich, ich, du, du” tối ngày cũng nản, tôi thèm được nghe tiếng: “Anh ơi!” hay “Ông xã ơi!” và tôi đành phải “lỡ bước sang ngang” lần nữa. Giã từ “Tóc nâu”, giã từ cái “ao người” buồn nản, tôi biết mình có lỗi với hai đứa con thơ vì khi bước chân ra khỏi nhà tôi biết sẽ không còn cơ hội được nhìn thấy chúng nó nữa.

Tôi gặp nàng lần thứ hai tại đám cưới của một thằng bạn thân. Sau bao năm trời không gặp, tôi vẫn nhận ra nàng, vẫn khuôn mặt non non đáng yêu, mái tóc thề đen mướt và đôi mắt nai xinh xinh, nhưng trông nàng có vẻ chững chạc hơn, điệu đàng hơn, ít ra là không vừa đọc sách vừa... gặm bánh mì mà ngồi ăn rất nhỏ nhẹ, dáng thẳng trang nghiêm nhìn dễ yêu làm sao.

- Ê mày! - Tôi hỏi nhỏ thằng bạn “chú rể”. Cô bé áo dài trắng bông cúc vàng đó mày có quen không?

- À! Bạn đồng nghiệp của bà xã tao ấy mà. Sao hả? “Động lòng” rồi à? Báo cho mày biết đường mà... né: “Người ta” sắp lấy chồng rồi đó.

- Tên cô bé là gì vậy?

- Lệ Chung.

- Tao sẽ đặt cho nàng một cái tên mới: Sao xẹt! Tại vì mỗi lần tao gặp cô ta là y như không có cơ hội tiến xa hơn.

- Thành kính phân ưu! Dù sao nếu mày muốn, tao sẽ tạo điều kiện cho được trò chuyện với người đẹp để thỏa lòng mơ ước. Nhưng nói trước, cô bé này chỉ số thông minh trên điểm trung bình đó nha, tội cái là “hồng nhan đa truân” yêu lầm một thằng vô dụng.

Giữ lời hứa, giữa bữa tiệc lúc nàng đến bên cô dâu trò chuyện thì thằng bạn thân ra hiệu với tôi. Sau vài lời giới thiệu... hai đàng, vợ chồng hắn kéo nhau đi mất. Tôi chẳng thể bỏ phí một giây phút nào:

- Xin lỗi! Tại vì hình như anh có gặp em một lần ở Đại nhạc hội cách đây mấy năm, muốn có dịp làm quen nhưng sau đó kiếm không ra em nữa.

- Trí nhớ anh thật là tốt, chắc hồi đó em đặc biệt... kỳ dị lắm mới được anh chú ý tới chứ gì?

- Không phải đâu, tại bữa đó anh chưa bao giờ thấy ai đến Đại nhạc hội mà cầm theo sách và... nhai bánh mì hết.

Nàng bật cười, nụ cười răng khểnh dễ thương chi lạ.

- Vậy thì hôm nay anh chú ý tới em bởi vì em... nhai cái gì đấy hả?

Đến phiên tôi phì cười vì sự ranh mãnh của nàng, tôi muốn nói rằng vì nàng đáng yêu quá nhưng e rằng nàng không ưa những gã “nịnh đầm” trắng trợn như vậy.

- Hôm nay thì tại vì em mặc áo dài. Em là người con gái duy nhất mặc áo dài ở đây, thấy không?

- Ờ há! Toàn là mấy bác đứng tuổi mặc áo dài thôi, vậy có nghĩa là em “lạc hậu” lắm phải không anh?

- Em không “lạc hậu” mà là “hoa hậu” chứ. Tôi nhẹ giọng. Trong tà áo dài, em thật là dễ thương.

Nàng đỏ mặt bẽn lẽn, mái tóc dài óng ả e ấp bờ vai thon nhỏ giọng nàng thật dịu dàng êm ái:

- Cảm ơn lời khen của anh, thật ra em mặc áo dài không phải vì... làm điệu mà chỉ vì muốn “còn chút gì để nhớ…” Việt Nam thôi.

Chợt nàng ngẩng lên chăm chú lắng nghe, ai đó đang hát bài “Ngày Xưa Hoàng Thị”, tuy không hay bằng ca sĩ Thái Thanh, nhưng nghe cũng cảm động. Bản nhạc dứt, đôi mắt nàng long lanh thoáng ướt.

- Đó là bài hát yêu thích nhất của em và mẹ em.

- Em thích nhạc Phạm Duy lắm sao?

- Nhưng không phải là nhất, em cũng thích nhạc của nhạc sĩ Ngô Thụy Miên, Văn Cao và Y Vân; à! còn nữa, Trịnh Công Sơn nữa chứ.

- Anh nghĩ, sở thích của em chắc chắn là đọc sách chứ không phải là âm nhạc.

- Dạ! Anh nói đúng! Em đọc hết bộ “Tam Quốc Chí” lúc em mười một tuổi và say mê tiểu thuyết của nhóm “Tự Lực Văn Đoàn” lúc em mười hai tuổi. Hồi đó, mẹ em khó khăn lắm mới “thuê lậu” mấy cuốn sách quý ấy cho em đọc tại vì em cứ học thơ của Tố Hữu làm mẹ em... nhức đầu.

Rồi cứ như theo đà, tôi và nàng hết nói chuyện âm nhạc, lại qua sách vở một cách say sưa. Nếu gã chồng “vô dụng” kia của nàng không tìm ra được chúng tôi và bực bội kéo nàng qua ngồi chung với đám bạn say sưa ồn ào của hắn thì tôi đã có một buổi tối tuyệt vời nhất trong đời được trò chuyện với một người con gái đáng yêu và có học như nàng. Lâu lắm rồi, tôi mới gặp một “tri âm, tri kỷ” như vậy.

“Tóc nâu” thì chẳng thèm học lấy một chữ tiếng Việt, đám bạn thân thì từ ngày tôi lập gia đình, tụi nó xa lánh dần dần vì ngại “Tóc nâu”. Có lúc, tôi tưởng như mình sống trên hoang đảo nếu không có ba má tôi an ủi thì chắc tôi phải mua hai ký bún về thắt cổ chết lâu rồi !?!

Giờ tôi lại lủi thủi ngồi vào một góc tối của hội trường ngắm nàng gượng cười giữa đám bạn say xỉn của người chồng chưa cưới. Tôi thầm than cho một “bông hoa lài” như nàng. Đàn bà không phải là vũ trụ đối với tôi như những ngày đầu đặt chân đến Đức, giờ tôi đã là ba của hai nhóc tì nhưng không hiểu sao tôi lại rung động tận sâu thẳm tâm hồn trước nàng. Màu áo dài trắng thướt tha ám ảnh tôi cả ngày hôm ấy, đi vào trong giấc ngủ cô đơn của tôi với toàn mộng đẹp. Những lời nói dịu dàng như còn văng vẳng bên tai tôi: “Em mặc áo dài không phải vì... làm điệu mà chỉ muốn còn chút gì để nhớ Việt Nam thôi”. Trời ơi! Em nào biết em đã là cả bóng dáng Việt Nam trong mắt anh ngày ấy với bóng hàng dừa xanh tha thướt, dòng sông hiền êm ái trôi xuôi, những con đường có lá me bay, rộp màu áo dài trắng buổi tan trường. Em đã làm nên “nỗi nhớ, nỗi buồn xa xứ của những tâm hồn ly hương khốn khổ”... như tôi.

Rồi một lần vào dịp thằng bạn thân vừa cưới vợ đó tổ chức ăn “tân gia” sau mấy tháng tìm nhà vất vả, tôi được mời đến phụ... ăn. Thừa dịp đó, tôi lân la hỏi thăm tin tức của... nàng. Chẳng cần biết tới “vĩ đại” đó của tôi, hắn vừa nhai nhồm nhoàm đùi vịt quay vừa lải nhải:

- Mày về nghe Thái Thanh hát bài “Nụ tầm xuân hỡi nụ tầm xuân” đi cho rồi.

- “Em” đã... sang ngang rồi sao? Tôi sững sờ.

- Tháng tới. Thiệp cưới nằm lù lù kia kìa, mày lấy mà đọc để... giải độc !

- Nhưng mày nói thằng đó... vô dụng mà?

- Ừ! Cờ bạc, rượu chè, bạn bè bù khú, làm chẳng ra tiền, vậy mà chẳng hiểu sao nhỏ Chung chịu lấy hắn? Mày hỏi, tao hỏi ai đây?

- Nhỏ Chung nói là đã “lỡ” với anh ta rồi phải lấy chứ không muốn mang tiếng nay người này mốt người nọ, không tốt. Vợ thằng bạn đột ngột xen vào.

- Điên quá! Tôi thở dài.

- Nhỏ này đọc sách nhiều quá nên thiệt là điên, nhưng biết làm sao được, mọi việc đã an bày.

Tim tôi đau nhói, đúng là mọi việc đã an bày, tôi và nàng thực sự “hữu duyên vô phận”. Tài hoa như thế, duyên dáng đến vậy mà làm gì, rồi em sẽ sống trong những chuỗi ngày đen tối với người chồng thiếu hiểu biết kia. Tôi chợt cảm thấy xấu hổ khi nghĩ những điều trên, biết đâu lấy vợ rồi, gã “lãng tử” kia sẽ “hồi đầu” chịu khó làm ăn, biết đâu vì nàng hắn sẽ nên thân và gia đình họ sẽ hạnh phúc, biết đâu... Dù sao, tôi cũng mong nàng có cuộc sống yên lành bởi vì nàng đáng yêu và mỏng manh quá, nàng đáng được che chở, nâng niu như một bông hoa quý.

Tối đó, tại nhà thằng bạn, tôi say khướt. Trong giấc mơ chập chờn hỗn loạn, nàng hiện đến thanh cao trong màu áo trắng của ngày hôn lễ nhưng không có gã chồng bên cạnh, đôi mắt nàng long lanh ngấn nước, chưa có một cô dâu nào nhìn buồn thảm đến như vậy.

Rồi cũng đến ngày cuới thật sự của nàng, nhờ sự giúp đỡ của thằng bạn, tôi tìm đến nhà hàng nơi tổ chức tiệc cưới, đậu xe xa xa, ngắm nàng tươi cười đứng cạnh chồng chào đón quan khách. Nàng ốm và xanh xao đến tội và lòng tôi cảm thấy thật xót xa. Chợt nàng lững thững theo chân những người bạn gái thân ra một góc vắng của khu vườn bên cạnh để chụp hình với họ, tôi chợt thấy nàng thoáng buồn, đôi mi cong chớp nhanh, đôi mắt mơ màng nhìn xa xăm, u sầu vời vợi. Tôi nhận ra đây chính là gương mặt nàng trong giấc mơ đêm nào, đôi mắt đăm chiêu như phủ một trời hoàng hôn lịm tắt. Đôi mắt ấy báo hiệu một cuộc hôn nhân gãy đổ nay mai. Linh tính đó lẽ ra làm tôi vui nhưng tôi lại cảm thấy đau đớn. Tôi như hòa vào nỗi đau khổ thầm kín của nàng và chỉ một mình tôi biết.

Không hiểu tại sao chỉ hai lần gặp gỡ mà tôi lại yêu nàng đến như vậy, một tình yêu kỳ quái và vô vọng, cứ y như chúng tôi có duyên nợ từ kiếp trước vậy. Nàng không xinh đẹp lộng lẫy nhưng tôi tìm thấy ở nàng dáng dấp một người thiếu nữ thật sự Việt Nam: thùy mỵ, dịu dàng, thông minh và... kiên nhẫn. Nhưng rồi mọi việc cũng phải qua, thời gian không xóa nhòa vĩnh viễn hình ảnh nàng nhưng cũng mờ nhạt dần, nàng ngủ yên đâu đó trong một góc tối êm đềm, sâu kín nhất của trái tim tôi.

Hai năm sau đó, tôi tháp tùng má tôi về Việt Nam thăm ngoại và được bà con họ hàng giới thiệu cho một cô hàng xóm khá xinh xắn. Cô ta còn rất trẻ nhưng rất lanh lợi, khôn ngoan dù chỉ mới học chưa hết lớp chín. Cô nàng chẳng hề biết Trịnh Công Sơn, Phạm Duy, Ngô Thụy Miên là ai, nhóm “Tự Lực Văn Đoàn” làm cái gì và Picasso hay Van Goch là... tên gì, nhưng cô nàng nấu ăn giỏi và biết chiều chuộng... má tôi, gọi dạ bảo vâng nhỏ nhẹ. Dĩ nhiên là má tôi “chấm” và tôi cũng “chấm” không phải vì những điều trên mà là vì cô ta có đôi mắt hao hao giống “nàng”.

- Mày lấy làm gì mấy đứa học cao về chỉ tổ hầu hạ nó. Con nhỏ này dễ thương, lo việc nhà giỏi, nó sanh con đẻ cái nấu ăn cho mày, biết chiều chuộng chồng là đủ rồi. Bộ một lần gãy đổ còn chưa sợ sao con? “Ta về ta tắm ao ta.”

Thôi thì lần này má biểu con “tắm” ở đâu thì con “tắm” ở đó và thế là tôi... cưới vợ.

Đúng như má tôi nói, vợ tôi không bao giờ mở miệng phản đối tôi chuyện gì trong những tháng năm đầu tiên, cô ta sanh cho tôi hai nhóc tì và đột nhiên tánh tình hoàn toàn thay đổi, còn tôi cũng từ từ chán một người vợ có cái đầu rỗng tuếch. Tôi đòi hỏi quá chăng, có thể lắm, nhưng tôi cứ như một con cá kình ngoắc ngoải giữa lòng biển hẹp. Đời chỉ có ăn ngủ, lo cho con cái học hành, hai vợ chồng chẳng có gì để tâm sự, không một sở thích nào chung nhau. Vợ tôi quá an phận và đinh ninh rằng suốt đời sẽ nương tựa vào “cây cột” là tôi nên không hề có ý muốn cầu tiến, không thèm học tiếng bản xứ, không cần giao du để mở rộng sự hiểu biết. Với một người chồng nào khác chắc sẽ hài lòng về một người vợ an phận thủ thường như thế nhưng tôi thì không.

Tôi thường xuyên bỏ nhà đến chỗ mấy thằng bạn và tệ hại hơn là sa đà vào những cuộc tình tội lỗi. Vợ tôi từ từ trở nên cộc cằn, thô lỗ hơn, tiếng bấc tiếng chì và cuối cùng là những trận cãi vã dữ dội đuổi tôi càng xa gia đình hơn. Tôi biết là làm ba má tôi buồn không ít, nhưng quả thật tôi như cảm thấy mất phương hướng, chới với giữa cuộc đời. Một người đàn ông không tìm thấy sự bình yên, hạnh phúc trong gia đình thì thật là đáng sợ. Sắc đẹp, tài nội trợ của vợ tôi ngày nào giờ không còn một chút nào quyến rũ nữa. Tôi trở thành một thằng chồng “khốn nạn” trong mắt vợ, chịu không nổi “địa ngục gia đình”, tôi chạy về Việt Nam “tỵ nạn!”

Chuyện có vẻ ngược đời nhưng đó là sự thật, nước Đức trở nên chẳng có gì luyến tiếc cả. Nếu ông thuyền trưởng tàu Cap năm xưa mà biết được chắc sẽ tặc lưỡi than: “Sao hồi đó không thả lại thằng này xuống biển cho nó bơi về Việt Nam hoặc vô bụng cá cho rồi. Thật là vô dụng! Gần hai mươi năm lưu lạc xứ người, cái thằng người “vô dụng” tôi về lại Việt Nam lần thứ hai với trái tim tan nát và một linh hồn tàn tạ, qua những cuộc vui thâu đêm suốt sáng, những mối tình cộng tiền với mắt xanh, môi đỏ càng làm tôi chán đến tận óc.

Rồi một chiều mưa buồn, chiều mưa định mệnh, tôi lang thang ghé vào một ngôi chùa nhỏ bên đường. Mấy thằng bạn từng chọc: tôi mà đi chùa thì Bụt sẽ bỏ chân xuống chạy liền, thật là quá đáng! Bây giờ thì tôi thật đang ở trong một ngôi chùa, nghiêm trang đốt một nén nhang lạy Phật, tôi chợt cảm thấy tâm hồn lắng dịu, êm ả thật nhiều. Tôi quỳ như vậy không biết bao lâu và nghe thấy có bước chân nhẹ nhàng đi tới, mùi nước hoa đắt tiền thoang thoảng, ngây ngất. Có lẽ trời mờ mờ tối mà tôi lại quỳ trong một góc nên người lạ không phát hiện ra nhưng tôi lại nhìn thấy rất rõ “người ấy.”

Tim tôi đập dồn dập, đã gần mười năm xa cách, và vẫn như ngày xưa, tôi nhận ngay ra “nàng”. “Nàng” không hề đổi khác với dáng vóc thanh mảnh, dễ thương, mái tóc dài tha thướt và vẫn thích mặc đồ trắng. Nàng thắp hương xong, chắp tay quỳ trước bàn thờ Phật và... nức nở khóc. Cảnh chùa im vắng, dù không cố ý nghe lén, nhưng những lời ai oán của nàng, tôi vẫn nghe không sót.

- Lạy Phật từ bi. Con thật khổ lắm, con đau lòng đến chết mất.

Nàng ngừng lại nghẹn ngào và tôi cảm thấy hình như mắt mình cũng cay cay.

- Con đã yêu thương và cố gắng làm tròn bổn phận một người vợ với chồng mình, dù anh ấy có hư hỏng đến đâu con cũng không bao giờ bỏ ảnh lúc cùng đường, quẫn bách con chỉ hy vọng anh ấy trở thành người tốt biết nghĩ tới gia đình. Ngờ đâu... khi có tiền, anh ấy lại đem lòng... phản trắc. Con không thể kể cho ai biết được là nhìn thấy anh ấy trong một quán cà-phê với một người con gái lạ tình tứ. Con sợ ba má con đau lòng, dư luận đàm tiếu. Con phải làm sao bây giờ? Đức Phật từ bi thương xót, con phải làm sao đây?

Nàng gục đầu sướt mướt, còn tôi cũng thoáng nóng nóng nơi gò má và hoảng hốt nhận ra mình cũng đang... rơi lệ. Trời Phật ơi! Từ nhỏ đến lớn, đau khổ cũng nhiều, tôi chưa từng để cho nước mắt mình rơi ra, vậy mà không hiểu sao lại rung động đến vậy trước sự đau khổ của “người yêu xưa cũ”. “Nàng của tôi” vẫn duyên dáng như ngày nào, với đôi mắt long lanh ngấn lệ, nàng càng có vẻ “thiên kiều bá mỵ” hơn. Nhưng tôi nhận ra nàng cũng chính ra hình ảnh người vợ tội nghiệp hiện tại của mình, có lẽ vợ tôi cũng từng khóc hết nước mắt như thế vì tôi. Có lẽ vợ tôi cũng từng quỳ như thế trước đấng Từ Bi than thở ai oán như thế mà tôi không hề hay biết?! Tôi cũng từng có những ngày hoang đàng ôm hết người này đến người kia để tìm quên địa ngục, hay chính tôi biến gia đình thành địa ngục? Đến bây giờ, tôi mới nhận ra mình thật là xấu xa, tồi bại. Lấy “Tóc Nâu” thì tôi chán vì cô nàng không chịu... ăn nước mắm và nói tiếng Việt, lấy “Tóc Đen” thì tôi nản vì bà vợ... nói nhiều quá, ru rú ở nhà chẳng biết trời cao đất rộng là gì. Tôi đã đòi hỏi ở họ quá nhiều nhưng chính bản thân mình nào có tốt đẹp gì cho cam “học không hay, cày chẳng giỏi”, lại mắc bệnh ích kỷ kinh niên nữa chứ. Trời ơi!

Nếu không tự sửa mình thì tôi sẽ còn làm hại tới... bà vợ thứ mấy nữa đây? Tới giờ, tôi vẫn còn một chút vấn vương là tôi đã, đang và chắc là sẽ mãi yêu “Nàng”, nhưng tôi cố kìm mình để không bước lại bên nàng bởi tôi biết nếu một chút xiêu lòng của cả hai; nàng trong lúc yếu lòng và tôi lúc thương cảm, thì chúng tôi đều sẽ cùng đi xuống... địa ngục. Cầu Trời Phật ban cho “nàng” sức mạnh để qua được giai đoạn khủng hoảng này. Tại sao “nàng” hiền, ngoan, thông minh, tài hoa như thế nhưng lại bạc mệnh đến nhường này? Cái gã chồng ngu ngốc đáng nguyền rủa kia quả thật đã đánh mất một viên ngọc vô giá mà không biết. Còn thằng chồng “ăn năn sám hối” là tôi đây lòng tràn đầy niềm tin và hy vọng trở về Đức sẽ làm lại cuộc đời và sống an phận, hạnh phúc bên vợ con.

Về lại Đức, tôi ngập ngừng đứng trước cửa nhà và ngỡ như đã xa xôi từ lâu lắm. Mặc dù đã điện thoại hỏi trước và được ba má tôi bảo là vợ tôi chắc là sẽ... mở cửa cho vào nhưng tôi vẫn hồi hộp hơn là một thí sinh trước giờ thi vấn đáp nữa. Cánh cửa mở ra.

- A! Ba về, ba về rồi má ơi!

Tiếng hai đứa con reo lên mừng rỡ làm tôi xúc động đến rơi nước mắt.

- Ba, ba cái quái gì? Tụi bây vô phòng hết đi! “Thằng cha” đó bị gái đẹp, móc hết tiền mới quay về nhà chứ gì? Nhàm quá rồi, có giỏi thì cút luôn đi. Nhìn thấy bản mặt khốn nạn đó là muốn ói ra rồi!

Tôi chết sững, trong tay vẫn còn cầm chiếc khăn tay hoen nước mắt của “nàng”. Nàng đã đánh rớt chiếc khăn này trong chùa và tôi đã nhặt lấy với ý định là để mỗi khi nhìn thấy sẽ tự nhủ lòng sống hết lòng với gia đình. Nhưng bây giờ tôi muốn hét gọi to tên “nàng” như một cứu cánh cho sự thất vọng, đau đớn ê chề lúc này.

- Anh biết anh có lỗi với em và con, anh sẽ không vào nhà đâu, anh ghé thăm mấy đứa nhỏ và cho tụi nó chút quà. Nếu em có cần anh giúp gì thì cứ điện thoại cho ba má, anh sẽ đến liền. Chào em!

Hai đứa bé mở to mắt nhìn và cùng hét lên khi thấy tôi quay lưng đi.

- Ba! Ba ơi ba!

Lần thứ hai trong đời, tôi đã khóc và chỉ muốn được như nàng nức nở trong một ngôi chùa vắng vẻ rằng:

- Đức Phật từ bi ơi! Con phải làm sao? Làm sao bây giờ?

 

☺ Thi Thi HỒNG NGỌC

 


 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/02/2022(Xem: 7004)
Hai năm trước, khi tin Hòa Thượng Thích Minh Tâm viên tịch lan truyền khắp năm châu, ai ai cũng ngỡ ngàng thương tiếc. Hầu như các tự viện trên thế giới đều tổ chức lễ tưởng niệm tri ân Ngài. Tu Viện Quảng Đức cũng không ngoại lệ, buổi lễ truy niệm đã được tổ chức một cách trang nghiêm, trọng thể. Sau đó TT Thích Nguyên Tạng đã lên chương trình Hành Hương Âu Châu vào cuối tháng 7 năm 2015, với mục đích chính là tham dự lễ Đại Tường Tưởng Niệm HT Thích Minh Tâm, đồng thời dự lễ Khánh thành Chùa Khánh Anh. Phật tử TVQĐ thật hoan hỷ với tin này và đã cùng nhau lập ra kế hoạch tiết kiệm để tham dự chuyến Hành Hương Âu Châu.Thời gian hai năm tưởng là lâu, nhưng thoắt một cái ngày đi đã gần kề, mọi người nô nức chuẩn bị hành trang để lên đường. Phái đoàn Hành Hương có 83 người gồm:Melbourne: 38 người; Sydney: 21 người; Perth: 9 người;Adelaide: 5 người.
07/02/2022(Xem: 17950)
Kính đa tạ Thầy đã giới thiệu 14 lời vàng của HT Thích Trí Tịnh (1916-2014 ) một Bồ Tát thị hiện đã mang kho tàng kinh các đến với Phật Tử VN trong và ngoài nước nhưng cuối cùng di chúc để lại cho đời chỉ vỏn vẹn 14 lời vàng này lại là Kim Chỉ Nam cho những ai muốn tu tập giải thoát ( LÀM LÀNH-LÁNH DỮ-THƯƠNG NGƯỜI- THƯƠNG VẬT-ĂN CHAY-NIỆM PHẬT -TỤNG KINH ) và Bộ Toàn tập Kinh Hoa Nghiêm 4 quyển cũng như Ngũ Kinh Tịnh Độ mà Ngài đã thọ trì hằng ngày từ A lại da thức khởi phát.
24/01/2022(Xem: 5266)
Tuyển tập Hành Hương Tứ Đại Danh Sơn Trung Quốc 2007 do Tu Viện Quảng Đức tổ chức
19/01/2022(Xem: 5493)
Dân tộc Việt Nam học và hành theo giáo lý Phật thuyết trên dưới hai nghìn năm trước khi Pháp sư Huyền Trang quy Phật cũng trên sáu thế kỷ, tuy vậy cho đến nay chúng đệ tử Phật, xuất gia cũng như tại gia, biết đến công hạnh của Ngài rất ít, và cũng biết rất ít di sản Kinh Luận của Ngài cho Phật tử Việt nam học và hiểu giáo pháp của Đức Thế Tôn một cách chân chính để hành trì chân chính. Bản dịch Đại Đường Tây vực ký của Hòa Thượng Như Điển với sự đóng góp của Cư sĩ Nguyễn Minh Tiến bổ túc cho sự thiếu sót này. Từ những hiểu biết để thán phục, kính ngưỡng một Con Người vĩ đại, hãn hữu, trong lịch sử văn minh tiến bộ của nhân loại, một vị Cao Tăng thạc đức, với nghị lực phi thường, tín tâm bất hoại nơi giáo lý giải thoát, một thân đơn độc quyết vượt qua sa mạc nóng cháy mênh mông để tìm đến tận nguồn suối Thánh ngôn rồi thỉnh về cho dân tộc mình cùng thừa hưởng nguồn pháp lạc. Không chỉ cho dân tộc mình mà cho tất cả những ai mong cầu giải thoát chân chính.
04/01/2022(Xem: 6209)
Không hiểu sao mỗi khi nhớ về những sự kiện của năm 1963 lòng con bổng chùng lại, bồi hồi xúc động về quá khứ những năm đen tối xảy đến gia đình con và một niềm cảm xúc khó tả dâng lên...nhất là với giọng đọc của Thầy khi trình bày sơ lược tiểu sử Đức Ngài HT Thích Trí Quang ( một sưu tầm tài liệu tuyệt vời của Giảng Sư dựa trên “ Trí Quang tự truyện “ đã được đọc tại chùa Pháp Bảo ngày 12/11/2019 nhân buổi lễ tưởng niệm sự ra đi của bậc đại danh tăng HT Thích Trí Quang và khi online cho đến nay đã có hơn 45000 lượt xem). Và trước khi trình pháp lại những gì đã đươc nghe và đi sâu vào chi tiết bài giới thiệu Bộ Pháp Ảnh Lục cùng lời cáo bạch của chính Đức Ngài HT Thích Trí Quang về bộ sách này, kính trich đoạn vài dòng trong tiểu sử sơ lược của HT Thích Trí Quang do Thầy soạn thảo mà con tâm đắc nhất về;
04/01/2022(Xem: 5105)
Trên đất nước ta, rừng núi nào cũng có cọp, nhưng không phải vô cớ mà đâu đâu cũng truyền tụng CỌP KHÁNH HÒA, MA BÌNH THUẬN. Tỉnh Bình Thuận có nhiều ma hay không thì không rõ, nhưng tại tỉnh Khánh Hòa, xưa kia cọp rất nhiều. Điều đó, người xưa, nay đều có ghi chép lại. Trong sách Hoàng Việt Nhất Thống Dư Địa Chí (1) của Thượng Thư Bộ Binh Lê Quang Định soạn xong vào năm 1806 và dâng lên vua Gia Long (1802-1820), tổng cộng 10 quyển chép tay, trong đó quyển II, III và IV có tên là Phần Dịch Lộ, chép phần đường trạm, đường chính từ Kinh đô Huế đến các dinh trấn, gồm cả đường bộ lẫn đường thủy. Đoạn đường ghi chép về ĐƯỜNG TRẠM DINH BÌNH HÒA (2) phải qua 11 trạm dịch với đoạn đường bộ đo được 71.506 tầm (gần 132 km)
04/01/2022(Xem: 4120)
Ngoài tên “thường gọi” là Cọp, là Hổ, tiếng Hán Việt là Dần, cọp còn có tên là Khái, là Kễnh, Ba Cụt (cọp ba chân), Ba Ngoe (cọp ba móng), Ông Chằng hay Ông Kẹ, Ông Dài, Ông Thầy (cọp thành tinh). Dựa vào tiếng gầm của cọp, cọp còn có tên gọi là Hầm, là Hùm, dựa vào sắc màu của da là Gấm, là Mun ... Ở Nam Bộ cò gọi cọp là Ông Cả, vì sợ cọp quấy phá, lập miếu thờ, tôn cọp lên hàng Hương Cả là chức cao nhất trong Ban Hội Tề của làng xã Nam Bộ thời xưa. Cọp cũng được con người gọi lệch đi là Ông Ba Mươi. Con số ba mươi này có nhiều cách giải thích: - Cọp sống trung bình trong khoảng ba mươi năm. - Cọp đi ba mươi bước là quên hết mọi thù oán. - Xưa, triều đình đặt giải, ai giết được cọp thì được thưởng ba mươi đồng, một món tiền thưởng khá lớn hồi đó. - Tuy nhiên, cũng có thời, ai bắt, giết cọp phải bị phạt ba mươi roi, vì cho rằng cọp là tướng nhà Trời, sao dám xúc phạm (?). Ngày nay, cọp là loài vật quý hiếm, có trong sách Đỏ, ai giết, bắt loài thú này không những bị phạt tiền mà còn ở
30/12/2021(Xem: 5363)
Tối ngày 11/02 âm lịch (03/03/2012), vào lúc 10 giờ tối, lúc đó tôi niệm Phật ở dưới hai cái thất mà phía trên là phòng của Sư Ông. Khi khóa lễ vừa xong, bỗng nghe (thấy) tiếng của đầu gậy dọng xuống nền phát ra từ phòng của Sư Ông. Lúc đó tôi vội vàng chạy lên, vừa thấy tôi, Ông liền bảo: “Lấy cái đồng hồ để lên đầu giường cho Sư Ông và lấy cái bảng có bài Kệ Niệm Phật xuống” (trong phòng Sư Ông có treo cái bảng bài Kệ Niệm Phật). Khi lấy xuống Sư Ông liền chỉ vào hai câu: Niệm lực được tương tục, đúng nghĩa chấp trì danh, rồi Sư Ông liền chỉ vào mình mà ra hiệu, ý Sư Ông nói đã được đến đây, sau khi ngồi hồi lâu Sư Ông lên giường nghỉ tiếp.
25/12/2021(Xem: 3908)
Cảo San đường Tuệ Nguyên Đại Tông sư (고산당 혜원대종사, 杲山堂 慧元大宗師) sinh ngày 8 tháng 12 năm 1933 tại huyện Ulju, Ulsan, một thành phố nằm ở phía đông nam Hàn Quốc, giáp với biển Nhật Bản. Ngài vốn sinh trưởng trong tộc phả danh gia vọng tộc, phụ thân Họ Ngô (해주오씨, 海州吳氏), Haeju, Bắc Triều Tiên và tộc phả của mẫu thân họ Park (밀양박씨, 密陽朴氏), Miryang, Gyeongsangnam-do, Hàn Quốc. Năm lên 7 tuổi, Ngài được sự giáo huấn của người cha kính yêu tuyệt vời, cụ đã dạy các bộ sách Luận ngữ, Mạnh Tử, Thích Độ, Đại Học, Tứ Thư và học trường tiểu học phổ thông. Vào tháng 3 năm Ất Dậu (1945), khi được 13 tuổi, Bồ đề tâm khai phát để làm tiền đề cho Bát Nhã đơm bông, Ngài đảnh lễ Đại Thiền sư Đông San Tuệ Nhật (동산혜일대선사, 東山慧日大禪師, 1890-1965) cầu xin xuất gia tu học Phật pháp. Thật là “Đàm hoa nhất hiện” khi những sợi tóc não phiền rơi rụng theo từng nhát kéo đong đưa. Tháng 3 năm 1948, Ngài được Hòa thượng Bản sư truyền thụ giới Sa di tại Tổ đình Phạm Ngư Tự (범어사, 梵魚寺), Geumjeong-gu, Busan, Hàn Qu
23/12/2021(Xem: 3016)
Chánh Điện của một ngôi Chùa tại xứ Đức, cách đây hơn 40 năm về trước; nơi có ghi hai câu đối: "Viên thành đạo nghiệp Tây Âu quốc. Giác ngộ chúng sanh đạo lý truyền", bây giờ lại được trang hoàng thật trang nghiêm và rực rỡ với các loại hoa. Đặc biệt nhất vẫn là những chậu cây Trạng Nguyên nhỏ to đủ kiểu, nổi bật nhất vẫn là những chiếc lá đỏ phía trên phủ lên những chiếc lá xanh bên dưới. Ai đã có ý tưởng mang những cây Nhất Phẩm Hồng, có nguồn gốc ở miền Nam Mexico và Trung Mỹ vào đây? Và theo phong thủy, loại cây này mang đến sự thành công, đỗ đạt và may mắn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567