Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tản Mạn Về Một Bữa Ăn Sáng

10/10/201406:57(Xem: 3017)
Tản Mạn Về Một Bữa Ăn Sáng
batcomhuongtich2
         
Từ lâu, người ta tin rằng có một cái “bản ngã” thường hằng, bất biến, tồn tại độc lập trong vạn pháp. Trước sự nhầm lẫn tai hại đó, Phật Thích Ca bèn nói thuyết “Vô ngã” để chúng sinh phá chấp. “Vô ngã” không phải không có gì hết mà là không có tự tánh, không có tự thể riêng biệt. Đây là một trong ba Pháp ấn trong hệ thống giáo lý của Phật giáo (hai pháp ấn kia là Khổ và Vô thường). Gọi là Pháp ấn có nghĩa là trong tám mươi bốn ngàn pháp môn của đạo Phật nếu có pháp môn nào không có một trong ba khái niệm Khổ, Vô thường và Vô ngã thì không phải giáo lý đạo Phật.

Mấy ngày qua mưa gió dầm dề, không gian nặng nề u ám, thế gian ẩm ướt nhạt nhòa, vạn vật co ro run rẩy trước cơn thịnh nộ của tạo hóa, bão giông. Hôm nay nắng đẹp, mặt trời rạng rỡ giữa không gian trong suốt như pha lê, một nguồn năng lượng khổng lồ từ mặt trời tuôn trào như thác đổ xuống nuôi sống và sưởi ấm thế gian, vạn vật mừng vui hớn hở, nhảy múa tưng bừng.

Anh Sinh rủ tôi đi chợ. Mấy ngày ngồi thu lu như con mèo bên xó bếp, tê cóng tay chân, nay trời trong nắng ấm cũng nên hòa mình vào điệu múa của vũ trụ cho giãn gân giãn cốt. Ngang nhà anh Đẹp, thấy anh đứng trước sân, chúng tôi rủ anh cùng đi cho vui.

Ba chúng tôi bước vào một quán ăn đông khách. Cô chạy bàn mau mắn đến lau dọn một bàn khách vừa ăn xong, mời chúng tôi ngồi và hỏi chúng tôi ăn gì. Anh Sinh hỏi cô ấy quán có gì ăn. Cô ấy liệt kê một hơi nào là cơm, cháo, hủ tiếu, bánh lọt, bún thịt xào…Tôi kêu tô cháo, anh Sinh dĩa cơm sườn, anh Đẹp tô hủ tiếu. Lát sau cô ấy bưng thức ăn ra, riêng tô cháo của tôi có kèm thêm dĩa bánh hỏi nhỏ, hỏi chúng tôi uống gì. Tôi uống trà đá đường, anh Sinh anh Đẹp uống cà phê đá.

Chúng tôi vừa ăn vừa trò chuyện. Anh Sinh nhìn lướt qua các món ăn, nói vui: “Cơm cháo hủ tiếu đều làm từ gạo, chỉ khác ở cách làm và tên gọi. Nghĩ ra dân mình giỏi thiệt, rất khéo tay. Nấu khô là cơm, lỏng là cháo, ép thành cọng là bún, cắt thành sợi là hủ tiếu. Nếu không khéo tay làm sao chế ra được nhiều món ăn và nhiều thứ bánh khác nữa, hai anh thấy đúng không?”. Anh Đẹp ngước lên, nói :“Theo tui thì do gạo là chính. Nếu khéo tay sao người ta không làm các loại đậu mè khoai bắp thành nhiều món ăn và nhiều thứ bánh như gạo?”.

Tôi lại nghĩ khác. Nói gạo và khéo tay là hai yếu tố chính làm ra các món ăn và các thứ bánh thì chưa đủ. Bởi vì, chỉ có gạo mà không có phương tiện làm sao nấu thành cơm, xây ra bột? Có cơm có bột mà không có các phụ liệu, gia vị khác làm sao chế biến thành các món ăn và các thứ bánh? Bản thân hạt gạo cũng do thân rễ lá cây lúa cùng đất nước, nắng mưa, sương gió…và cả mồ hôi nước mắt của nông dân hợp lại tạo thành. 
 
Khéo tay cũng không phải trời cho, vốn sẳn có của con người mà phải trải qua quá trình lao động con người mới nảy sinh óc sáng tạo. Do đó, tự hạt gạo và sự khéo tay không quyết định được sự hiện hữu của các món ăn và các thứ bánh mà chúng là tổng hợp của sức lao động, nguyên liệu, phương tiện, phụ liệu, gia vị chứ không có thứ nào là thành phần chủ yếu như anh Sinh và anh Đẹp nói. Nếu thiếu vài thứ hoặc tách rời chúng ra, mỗi thứ đều tồn tại độc lập sẽ không bao giờ có các món ăn và các thứ bánh.

Cách nghĩ của hai bạn tôi thì na ná như khái niệm “hạt cơ bản” xuất phát từ thời Hy Lạp cổ đại. Khái niệm nầy cho rằng nguyên tử là hạt nhỏ nhất, cứng chắc, đầy đặc, không thể phân chia và là “hạt cơ bản” của vật chất, tạo ra vật chất. Từ đó, thuyết nguyên tử được xây dựng và nhanh chóng trở thành cơ sở, nền tảng vững chắc cho triết học và khoa học cổ điển phát triển rực rỡ cùng với những thành tựu to lớn do nó mang lại suốt một thời gian dài. Mãi đến cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, nền khoa học hiện đại phát hiện nhiều điều mới mẻ, lạ lùng về nguyên tử thì khái niệm “hạt cơ bản” bị lung lay và gần như sụp đổ.

Những phát hiện mới mẻ, lạ lùng đó cho thấy nguyên tử không phải “hạt cơ bản” của vật chất và tạo ra vật chất, không phải là hạt nhỏ nhất, đầy đặc, cứng chắc mà nó rỗng không, được cấu tạo bởi các hạt nhỏ hơn như electron, hạt nhân, neutron, proton. Ngoài những hạt đó ra, người ta còn tìm được vài trăm hạt khác nữa, tạo nên một thế giới hạt hạ nguyên tử phong phú, đa dạng. 
 
Chúng vừa là khối lượng vừa là năng lượng nằm rải rác khắp nơi trong mạng lưới “trường” bao la trong không gian. Chúng vận động và tương tác lẫn nhau liên tục, tạo ra quá trình sinh diệt của thiên hình vạn trạng hiện tượng và biến cố trong vũ trụ, biến vũ trụ thành một sinh cơ và biến sự vận hành của vũ trụ thành một điệu múa hoành tráng, hài hòa, năng động .    

Thật ra, những phát hiện của khoa học hiện đại không có gì mới mẻ, lạ lùng do chúng đã được Phật Thích Ca biết đến hơn hai ngàn năm trăm năm trước. Bằng phương pháp quán chiếu, Ngài thấy vạn pháp (mọi sự vật và cả thân ngũ uẩn của chúng ta) đều do duyên sanh, hễ duyên hợp thì pháp thành, duyên tan thì pháp hoại. Do đó, các pháp đều không có tự tánh, tự thể riêng biệt mà Ngài gọi là “bản ngã” (cái tôi, cái ta). 
 
Khái niệm “bản ngã” của Phật giáo tương đương với khái niệm “hạt cơ bản” của khoa học cổ điển, và “duyên” của Phật giáo tương đương với “hạt năng lượng” của khoa hoc hiện đại. Cũng như các hạt năng lượng, không có duyên nào cơ bản tạo ra các pháp mà các pháp được tạo ra bằng sự tương tức tương nhập của chúng với nhau, cái nầy có cái kia mới có, pháp nầy sinh pháp kia mới sinh. Đối với con người cũng vậy, cơ thể chúng ta là tổng hợp của rất nhiều cơ quan, bộ phận và rất nhiều thành phần khác của tự nhiên, xã hội và gia đình từ vật chất đến tinh thần…ngoại trừ cái “bản ngã” là không có. 
 
Nói thế có nghĩa là cơ thể chúng ta không chứa “bản ngã” và tự nó không thể tạo ra cơ thể chúng ta. Nếu lấy ra vài cơ quan, bộ phận của cơ thể, vài thành phần khác của tự nhiên, xã hội và gia đình trong cái tổng thể thì nó sẽ không thành cơ thể con người. Tóm lại, do vạn pháp không có tự tính, tự thể riêng biệt nên chúng chỉ là giả tướng chứ không phải thật tướng.

Từ lâu, người ta tin rằng có một cái “bản ngã” thường hằng, bất biến, tồn tại độc lập trong vạn pháp. Trước sự nhầm lẫn tai hại đó, Phật Thích Ca bèn nói thuyết “Vô ngã” để chúng sinh phá chấp. “Vô ngã” không phải không có gì hết mà là không có tự tánh, không có tự thể riêng biệt. Đây là một trong ba Pháp ấn trong hệ thống giáo lý của Phật giáo (hai pháp ấn kia là Khổ và Vô thường). Gọi là Pháp ấn có nghĩa là trong tám mươi bốn ngàn pháp môn của đạo Phật nếu có pháp môn nào không có một trong ba khái niệm Khổ, Vô thường và Vô ngã thì không phải giáo lý đạo Phật.

Thuyết “Vô ngã” là một trong những nguyên lý tự nhiên được Phật Thích Ca đưa xuống bình diện con người mang tính tâm lý thực tiễn sinh động chứ không mang tính huyền thoại siêu hình và đã được thực tế chứng minh. Ngoài thuyết “Vô ngã” còn có khái niệm Nghiệp (Karma) là đầu mối của mọi cái “Khổ” và nguyên lý vũ trụ luôn luôn vận động, biến dịch mà Phật giáo gọi là “Vô thường”. 
 
Nhà Vật lý học hạt nhân người Mỹ J.R.Oppenheimer (1904-1967) thừa nhận :“những quan điểm chung về nhận thức của con người, được minh họa bởi những phát hiện của vật lý nguyên tử, tự nó không xa lạ hay khó hiểu. Ngay trong nền văn hóa của chúng ta, chúng đã có lịch sử và trong tư tưởng Phật giáo hay Ấn Độ giáo chúng có một chỗ đứng trung tâm đáng kể. Điều mà ta phát hiện chỉ nêu thêm thí dụ, xác nhận và làm tinh tế thêm cho một nền minh triết cổ xưa./
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
11/10/2010(Xem: 2209)
Không ngờ tôi lại có được duyên lành đi chung với Thầy Trụ Trì Chùa Tâm Giác một đoạn đường khá xa. Tôi vẫn thường hay đến chùa, vãn hay gặp Thầy nhưng lúc nào Thầy cũng „Phật sự đa đoan“ nên tôi có rất ít thì giờ gần gũi và tiếp xúc với Thầy nhiều. Chuyến đi này thật hữu ích cho tôi vô cùng, tôi đã nghe và thấm nhuần được rất nhiều điều về Giáo lý Phật Đà - một niềm tin mà tôi luôn luôn tôn thờ và say mê khi vừa mới lớn cho đến tận bây giờ và cũng nhờ Thầy mà đoạn đường đi về 260 km không còn xa vời vợi nữa.
07/10/2010(Xem: 2376)
Hiện nay, truyền thuyết Lương Sơn Bá-Chúc Anh Đài được lưu truyền dưới nhiều hình thức nghệ thuật khác như kể chuyện, ca dao, truyền kỳ, kịch, khúc nghệ, âm nhạc, v.v
05/10/2010(Xem: 1972)
Năm Tiết Đào lên tám, một hôm vào mùa thu, Tiết Đào đứng chơi bên cạnh cha, gần một cây ngô đồng. Cây đã già, cành lá sum sê đứng sừng sững trước nhà...
05/10/2010(Xem: 2609)
Kiều bào hơn 30 quốc gia trên thế giới đã về Thủ đô nhân mùa lễ hội kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long – Hà nội. Ngày 30/9, tất cả đã có mặt, và được đón về khách sạn Kim Liên. Ngày mồng 1 và mồng 2 tháng 10, tất cả các đoàn Kiều bào được tập dợt tại đường Bắc Sơn, sơ duyệt diễu hành tại Quảng trường Ba Đình. Và những ngày sau đó được Ban Tổ chức đưa đi thăm viếng thắng cảnh, các khu di tích có liên quan đến triều đại Thánh Vương Lý Thái Tổ.
04/10/2010(Xem: 1826)
Thôi Hộ, một danh sĩ đời nhà Đường (618-907), nhân dự hội Đạp Thanh đến Đào Hoa Trang, gõ cửa một nhà xin được giải khát. Một thiếu nữ đứng thập thò bên cửa...
02/10/2010(Xem: 2160)
Một đêm nọ, sư cụ nằm mộng thấy một người đàn bà dắt năm đứa con nhỏ đến trước mặt mình rồi vái lấy vái để, miệng nói: "Xin cứu mạng! Xin cứu mạng!". Sư hỏi người đàn bà...
30/09/2010(Xem: 7902)
Chúng sanh bị đọa địa ngục, đó là chúng sanh tâm bị đọa lạc vào địa ngục tham, sân, si phiền não. Muốn giải phóng chúng sanh tâm, phải dùng tự tánh Địa Tạng của chính mình.
27/09/2010(Xem: 5803)
Đức Địa Tạng là một vị đã chứng bực Đẳng Giác trải đến vô lượng A Tăng Kỳ kiếp rồi. Ngài có lời đại nguyện rằng: Nếu Ngài chưa độ hết chúng sanh, thì Ngài không chứng quả Bồ Đề, và nếu sự thọ khổ trong địa ngục hãy còn, thì Ngài thề không chịu thành Phật. Do cái bổn nguyện ấy, nên Ngài phân thân nhiều phen, đặng độ thoát hằng hà sa số chúng sanh đương tội khổ, trải đã không biết bao nhiêu kiếp rồi, mà Ngài cũng còn làm một vị Bồ Tát như vậy. Còn như nói đến tiền thân của Ngài từ khi chưa chứng quả vị, có kiếp Ngài làm con gái, có kiếp thì Ngài làm con trai, và cũng có kiếp Ngài làm vua nữa.
25/09/2010(Xem: 8056)
Nan-In, một thiền sư Nhật vào thời Minh - Trị (1868- 1912), tiếp một vị giáo sư đại học đến tham vấn về Thiền. Nan-In đãi trà. Ngài chế một cốc đầy và vẫn tiếp tục rót.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567