Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

KHAI THỊ III

13/10/201007:18(Xem: 2170)
KHAI THỊ III


LỜI KHAI THỊ PHÁP MÔN NIỆM PHẬT

Của Ngài Triệt Ngộ Thiền Sư 
Người dịch : Thích Ðạt Dương
Phật Lịch 2512
In tại ấn quán: Nam - Trung - Bắc, 134 Lý Thái Tổ, Sài Gòn, Việt Nam

Hết thảy chúng sanh bị năm thứ lợi sử và năm thứ độn sử sai khiến thân tâm mà phải trôi lăn trong biển sanh tử kiếp nọ sang kiếp kia chịu sự thống khổ không ra khỏi được thiệt cũng nên buồn.

A- Năm thứ lợi sử tức là 5 kiến kể dưới đây:

1- Thân Kiến: Gồm cả ngã kiến và ngã sở kiến. Ta thường nghĩ là không biết rằng cái tâm ta là do 5 uẫn gỉa hợp mà lại trở chấp cho là thiệt có, ấy là kiến ngã. Lại không biết những vật xung quanh thân ta nó vẫn không có chủ sở hữu nhất định mà lại trở chấp làm vật sở hữu nhất định của ta. Ấy là ngã sở kiến.
2- Biên Kiến:Nghiã là hoặc chấp cái ta ấy sau khi chết rồi nó vẫn hằng còn. Hoặc chấp cái ta ấy sau khi chết nó tiêu mất. Vì hai nghĩa đều chấp một bên như vậy nên gọi là biên kiến.
3- Tà Kiến: Nghiã là bát bỏ luân lý nhân qủa, mà cho rằng trong đời sống không có cái nguyên nhân nào chiêu cảm được sự kết qủa. Và không có cái kết qủa nào do nơi nhân duyên sanh ra. Dầu thiện cũng khôn đủ mừng, và dầu ác cũng khôn đủ sợ. Vì chổ thấy quá ư là tà mậu, mâu thuẩn như vậy. Nên kêu là tà kiến.
4- Kiến Thủ Kiến: Nghĩa là chấp lấy những thứ thân kiến, biên kiến, tà kiến cho là phải và chấp hết thảy những việc hạ liệt mà cho là thù thắng hơn hết.
5- Giới Cấm Thủ Kiến:Nghĩa là mê chấp cái thân khổ hiện tại mà giữ theo những thứ tà giới khổ hạnh để làm cái nhân sanh về cõi trời hay là chứng đạo niết bàn.
Vì năm kiến ấy mê lầm nơi chơn lý tứ đế mà khởi ra. Nó là thứ hoặc tánh hết sức mẫn nhuệ. Nên kêu là lợi sử.

B- Còn năm thứ độn sử là:
1- Tham nghĩa là yêu lấy năm kiến làm phải.
2- Sân nghĩa là giận lấy năm kiến làm quấy.
3- Si là dại không biết lấy cái lý trong năm kiến làm trái.
4- Mạn nghĩa là lấy năm kiến làm chánh đáng mà sanh lòng kiêu mạn.
5- Nghi nghĩa là đối với chân lý tứ đế mà dụ dự hoài nghi, không quyết định.

Vì năm sử ấy do lợi sử sanh ra, có phần chậm lụt hơn nên kêu là độn sử.
Trong mười sử ấy, chúng sanh hoặc có nhiều, hoặc có ít, không ai tránh khỏi. Mà nếu tu hành mà còn mang đeo lấy nó, thì càng thêm nuôi lớn tà kiến phiền não.
Nhưng muốn đoạn trừ nó cho được cũng khó. Vì mười sử ấy ở dưới bốn đế: Khổ, Tập, Diệt và Ðạo trải qua ba giới : Dục, Sắc và Vô Sắc Giới. Chín địa ngục giới làm một địa với sắc giới. Bốn thiền thiên và vô sắc giới bốn không sứ là chín địa thông kể thành ra 88 sử kiến hoặc 81 phẩm tư hoặc, đã đoạn được kiến hoặc cũng khó như đoạn dòng nước chảy dài đến 40 dặm. Huống chi tư hoặc lại càng khó đặng đoạn hơn nữa.

Cho nên người tu hành mà nếu kiến hoặc và tư hoặc còn dính níu chút ít như một mảy lông, một sợi tóc thì cũng đọa vào ác địa ngục đặng chịu khổ. Còn như sanh về cõi nhơn gian thì lại chịu mọi sự khổ não, phần thì oán cừu gặp gỡ, phần thì ân ái chia lìa, cái khổ trạng ấy không thể kể xiết.

"Vì đại vương nhờ nhân duyên tu phước đời trước nên mới hưởng sự tôn vinh như vậy. Nếu nay đại vương giữ gìn giới luật thì sẽ đặng phước báo lớn hơn nữa, còn như tự học chánh pháp thì sẽ có được nhất thiết chủng trí. Vậy xin đại vương nên phát tâm cầu đạo vô thượng Bồ Ðề, chứ đừng cầu xin những phước nhỏ nhen như hạng người hèn vậy."

Vua Vô Tránh Nhiệm nghe quan đại thần Bảo Hải khuyến thỉnh như thế, thì tâm lượng bừng sáng, tự nhiên mở rộng, liền đáp rằng: "Trẩm chẳng cầu những việc như khanh nói đó đâu. Trẩm muốn trải khắp trong đường sanh tử làm việc bố thí trì giới hầu nghe những pháp mầu nhiệm, tu hạnh Bồ tát và cứu giúp chúng sanh. Do nhân duyên ấy mà phát tâm Bồ Ðề."

Ðại thần Bảo Hãi nói rằng: "Bồ Ðề là một đạo rất trong sạch và sáng suốt, rất ngay thẳng chính đáng, rất trang nghiêm tốt đẹp, rất rộng lớn cao siêu, khắp cả hư không trùm cả tam giới, rất có oai thần mảnh lực. Vả lại đạo Bồ Ðề là hạnh bố thí, sẽ được giàu sang. Là hạnh trì giới sẽ đặng được thanh tịnh. Là hạnh nhẫn nhục sẽ đặng vô ngã. Là hạnh tinh tấn sẽ đặng bất thối. Là hạnh thiền định sẽ đặng vắng lặng. Là hạnh bát nhã sẽ đặng sáng suốt.Tu được như vậy mới đến chỗ an lạc và mới chứng đặng qủa Niết Bàn. Vậy xin đại vương nên phát tâm mà cầu đạo vậy."

Vua Vô Tránh Nhiệm đáp rằng: "Nầy khanh, đương thời kỳ trung kiếp mỗi người sống lâu chỉ có tám vạn tuổi mà thôi. Nay đức Bảo Tạng Như Lai ứng hiện ra đời mà giáo hóa chúng sanh. Hoặc có kẻ chứng pháp tam muội, hoặc có người đặng được bậc bồ tát. hoặc đặng thọ ký làm Phật, hoặc đặng quả báo nơi cõi nhơn thiên. Trong hàng chúng sanh có một người nào ra khỏi phân đoạn sanh tử vậy. Thì thừa biết thụ xuất tam giới khó đến bực nào"

Song thụ xuất tam giới như vậy thì khó mà hoành xuất tam giới thì dễ vì mười sử ấy cũng gọi chung một tiếng là tri kiến của chúng sanh đó thôi không có chi khác. Mà tri kiến của chúng sanh thì phải lấy tri kiến của Phật mà đối trị.

Tri kiến của Phật tức là cái tánh linh tri ly niệm hiện tiền của chúng ta. Nhưng tánh linh tri ấy không thể cô lập một mình được mà tất phải tùy duyên ứng khởi. Nếu nó chẳng tùy duyên Phật giới thì nó sẽ tùy duyên vào chín giới kia mà phát khởi. Vì lià ngoài 10 giới ra thì sẽ không có duyên khởi nào khác nữa.

Mà bây giờ muốn tùy theo duyên khởi Phật giới, thì không chi bằng lấy cái tâm tín nguyện của ta mà trì danh hiệu của Phật. Duy có một điều là tín phải cho sâu, nguyện phải cho thiết và trì danh phải cho chuyên cần mới được.
Quả như ta dùng cái tâm sâu, thiết, chuyên cần ấy mà tín nguyện trì danh tức là ta lấy tri kiến của Phật mà làm tri kiến của ta và cũng tức là ở trong niệm niệm mà ta lấy tri kiến của Phật đối trị với tri kiến của chúng sanh vậy.

Nếu ta đề được một cái tín nguyện trì danh vào trong tam thập sử. Thì tất nhiên ta chuyển được duyên khởi chúng sanh mà làm thành duyên khởi Phật giới. Ðó là điểm sắt biến thành vàng rất mầu nhiệm ở trong pháp môn tu học và không có pháp nào hay hơn pháp này. Nhưng phải đảm đương Pháp này một cách cho tận tình. 

Ðừng để một giây phút ngoại duyên nào xen tạp dính líu. Niệm Phật càng lâu càng thiết tha và mãi tới không lui sụt. Thì ta có thể ngồi đợi đài vàng đến rước. Ðó là do nơi cõi đồng cư bên này sanh về cõi đồng cư bên kia mà theo bề ngang ra khỏi tam giới. Nếu so sánh với cách ra theo chiều đứng kia thì dễ hơn biết là chừng nào.

Một câu A Di Ðà Phật là dược vương thuốc A Di Ðà không chứng bệnh gì mà không chửa lành. Ðó là hạt châu như ý. Không nguyện vọng nào mà không thỏa mãn. Là chiếc thuyền từ trong biển khổ sanh tử. Không có cái khổ nào mà chẳng độ được. Và là ngọn đèn huệ trong đêm trường vô minh. Không một bóng tối, âm u nào mà chẳng phá tan. Miễn mình một phen nghe lọt vào tai tức là có duyên hoặc mình một niệm muốn khởi tín tâm tức là tương ứng rồi.

Nếu tín tâm qủa được chơn thiệt, thì nguyện tâm chẳng hẹn phát mà tự nhiên cũng đã phát rồi. Ta chỉ đem hai món tín và nguyện ấy để luồng vào tâm. Cũng giống như người dân phụng thỉnh mật chỉ của thánh quân. Và cũng như con thảo theo cái nghiêm mạng của từ phụ. Là một việc cần yếu thứ nhất và nhớ mãi không khi nào dám quên. Thì dầu ở trong hoàn cảnh thanh danh hay là huyên náo, thông thả hay rộn ràng, niệm nhiều hay niệm ít. Cũng đều làm cho cái chánh nhân vãng sanh được cả. Nhưng chỉ sợ cách nhau ở trong cảnh siêng năng và lười biếng đó thôi.

Chúng ta từ vô lượng kiếp nhẫn lại đây mãi ở trong vòng lục đạo luân hồi. Lẽ nào lại không biết phát cái tâm cầu đạo giải thoát và tu cái hạnh hướng đạo hay sao? Nhưng thiệt ra là tại nơi tánh nhơn tuần đày đọa của ta làm cho thất bại, mà phải chịu nỗi thống khổ với cái luật sanh tử từ hồi nào chưa hề ra khỏi.

Vậy mà ngày nay đã nghe được pháp môn trì danh niệm Phật là pháp môn rất giản dị và rất thiết yếu. Mà nếu còn theo dấu xe trước kia đành chịu một bề nghiên úp. Thì thiệt là một hạng người không có huyết tánh chút nào.

Cái nghĩa trì danh niệm Phật là nói: Giữ chắc danh hiệu Phật A Di Ðà vào trong tâm ta mà không lúc nào tạm nghĩ. Bằng như trong tâm niệm Phật của ta có gián đoạn hay là xen tạp chút ít cũng đều không phải là nghĩa trì danh niệm Phật. Hãy nối luôn đừng cho xen hở vậy mới gọi là thiệt tinh tấn, mà nếu tinh tấn mãi không thôi thì lần lần đi tới chổ nhất định tâm bất loạn mà tịnh nghiệp chắc được viên thành.

Ðến khi đã đến chổ nhất tâm bất loạn rồi mà trình độ tinh tấn của ta vẫn cứ lên mãi. Thì sẽ thấy được cái công hiệu mỡ được trí tuệ, phát được biện tài, chứng được thần thông và thành được niệm Phật tam muội cho nên đến bao nhiêu những tướng thoại linh dị cũng đều được hiện tiền tất cả, duy có một điều trước khi được những công hiệu ấy ta không nên dựa để cái tâm hý cầu. Mà ta phải nên ráng sức đi tới chổ nhất tâm bất loạn đó thôi.

Chẳng hạn tu tập pháp môn gì cũng cần phải rõ được tông chỉ là qúy, thế mà người đời nay chỉ biết vạn pháp duy tâm. Chỉ biết ngoài tâm không có Phật mà không biết ngoài Phật không tâm. Chỉ biết vô lượng làm một mà không biết một làm vô lượng. Và chỉ biết chuyển sơn hà đại địa về tự kỷ mà chẳng biết chuyển tự kỷ về sơn hà đại địa.

Nếu chẳng biết tâm duy vạn pháp thì đâu thiệt biết được vạn pháp duy tâm. Nếu chẳng biết ngoài Phật không tâm thì đâu thật biết được ngoài tâm không Phật. Thiệt chẳng khác nào một qủa cầu tròn tách làm hai. Rời ra thì hai, nếu cả hai hiệp lại thì thành một, tất cả cập vậy.

Cho nên người niệm Phật phải lấy duy Phật, duy độ làm tông. Mà nếu cái tông duy Phật, duy độ chẳng rõ thì cái nghĩa chơn duy tâm chẳng thành.
Còn như thấu tới cái nghĩa chơn duy tâm thì cái tông duy Phật, duy độ tự nhiên thành lập.
Sau khi thành được tông ấy rồi thì một Phật sở niệm và độ sở sanh toàn thể đại dung của nó ngang giáp dựng cùng, bao trùm hết thảy. Sở niệm đã thế thì năng niệm cũng vậy.

Ðó là lấy cái tâm thiệt tưởng niệm ông Phật thiệt. Tưởng lấy cái tâm pháp giới niệm ông Phật pháp giới. Niệm niệm tuyệt đãi, niệm niệm viên dung. Vì tuyệt đãi siêu hơn hết thảy các pháp môn khác , không pháp nào sánh kịp. Vì viên dung cho nên thấu triệt hết thảy pháp môn không pháp gì lọt ngoài. Cho nên một câu A Di Ðà Phật phải tin như thế và phải niệm như thế thì mới bất tư nghì ở trong bất tư nghì vậy.

Nguyên lai cái tánh linh tri ly niệm hiện tiền của chúng ta đó, là cái chư phật giới chúng sanh đồng có do một bực không hai không khác.
Nhưng chư Phật vì tùy theo nhân duyên thanh tịnh giác ngộ, giác ngộ rồi lại giác ngộ nữa. Thanh tịnh rồi lại thanh tịnh nữa. Cho nên sự giác ngộ thanh tịnh cùng tột thấu đáo. Mà trình độ phát triển của tánh linh tri ngang giáp dựng cùng, rộng lớn không có chi lọt ra ngoài được.

Còn chúng sanh thì bị tùy theo nhân duyên mê muội ô nhiễm. Mê muội rồi lại mê muội nữa. Ô nhiễm rồi lại ô nhiễm nữa. Cho nên tánh linh tri bị cục xúc ở trong ngũ uẫn mà thành nhỏ nhen hèn hạ.
Song tánh linh tri nhỏ nhen hèn hạ ấy đối với tánh linh tri rộng lớn của chư Phật kia. Ðương thể không hai không khác. Nếu mà được tùy theo cái duyên giác ngộ thanh tịnh thì nghiệp hết tình không. Tức là tánh linh hèn mọn ấy xoay trở lại làm thành cái tánh linh tri rộng lớn. Cũng như một đóm lửa mà nó có thể đốt cháy muôn khoảng rừng hoang đó vậy.

Trái lại ta cần phải biết linh tri hiện tiền đó, nếu luận theo cái cảnh sở tri của nó thì vẫn có rộng hẹp hơn kém chẳng đồng nhau thật, nhưng nếu luận theo cái trí năng tri của nó thì toàn thể của nó vẫn như giống y không khác. Cũng ví như đồng một thứ lửa mà đốt hương chiên đàn thì thơm, đốt phẩn khô thì thúi. Lại đồng một thứ nước, mà hoặc có nước đục nước trong. Ðồng một thứ gương, mà lại có gương mờ gương tỏ. Nhưng thiệt ra nước tuy có trong có đục mà cái tánh ước của nước không hai. Gương tuy có tỏ có mờ mà cái thể trong sáng của gương như một.
Nếu nước đã đồng một tánh ướt thì nước đục có thể lóng thành trong. Gương đã đồng một thể sáng, thì gương mờ dơ có thể chùi sạch để trở thành sáng tỏ. Cái sáng sạch mà bị mờ dơ là vì dính động bụi nhơ. Mà thứ bụi nhơ ấy gốc chẳng phải sáng của bản thể gương. Còn nước mà bị đục, là vì xen lộn bùn đất ấy. Chất đục chẳng phải tánh ướt. Cái ướt ấy chính là bản tánh của nước.
Thế thì một niệm linh tri đó cũng như tánh ướt vậy. Ví như là tánh sáng của gương và tánh đốt cháy của lữa. Cái thể của nó cũng không khác vậy.

Bởi cái thể của nó không khác cho nên ở trong môn phương tiện tu hành có nhiều cách:
1- Có phái thì chỉ kính ngưỡng hâm mộ nơi các đức Phật.
2- Có phái thì chỉ tôn trọng nơi tánh linh tri của mình.
3- Có phái thì ngoài ngưỡng mộ các đức Phật mà còn tôn trọng tánh linh tri của mình nữa.
4- Lại có phái thì ngoài cũng chẳng ngưỡng mộ các đức Phật mà trong cũng chẳng tôn trọng tánh linh tri của mình.

1- Phái chỉ kính ngưỡng hâm mộ nơi các đức Phật:
Các người tu hành theo phái này là như những người cứ theo bổn phận mà hành, vì biết các đức Phật kia đều là đấng đã chứng trước cái tánh linh tri của mình. Nào lúc nói, lúc nín, lúc động, lúc tịnh, mỗi mỗi đều có thể làm thành cái khuôn phép để lại cho ta.
Nếu ta không tín ngưỡng hâm mộ các Phật thì quyết không có đường tấn tu, cho nên hằng ngày hoặc chuyên trì danh hiệu, hoặc quán tưởng âm dương, ba nghiệp, tính thành 6 thời lễ niệm. Nghiêng lòng quy hướng suốt đời, noi theo vẫn kịp đến lúc thời kỳ đã tới, cơ duyên đã mùi, thì cảm ứng đạo giao, tâm địa mở to, linh quang bày tỏ. Khi ấy mới biết rõ cái tánh linh tri của mình có bản gốc không khác gì với các đức Phật. Vậy thì cái tánh linh tri của mình cũng phải được tôn trọng như vậy.

2- Phái chỉ tôn trọng nơi tánh linh tri của mình:
Các người tu hành theo phái này chỉ tôn trọng tánh linh tri của mình. Là những người tham thiền bên tông môn với tôn chỉ: Chỉ thẳng tâm người thấy tánh thành Phật. Cho nên chỉ muốn ở 12 thời và trong 4 oai nghi, lúc nào cũng bày rõ cái bộ mặt bản lai và cũng thọ dụng lấy cái phong quang tốt đẹp nơi bản địa của mình. Ngoài tâm tánh ra không còn một mãy gì dính mắc. Và kịp cho đến lúc công phu, tháo nghệ đã sâu. Trình độ chứng ngộ đã tột khi ấy mới biết hết thảy các Phật đều là bậc đã chứng trước cái tánh linh hằng lâu, thì càng nên kính ngưỡng hâm mộ.

3- Phái ngoài ngưỡng mộ các đức Phật mà còn tôn trọng tánh linh tri của mình:
Các người tu hành theo phái này luôn thường nêu cao tôn chỉ : Muốn tôn trọng tánh linh của mình thì tất phải ngưỡng mộ các đức Phật. Mà ngưỡng mộ các đức Phật chính là tôn trọng tánh linh của mình. Lại nếu ngưỡng mộ các đức Phật thì tất nhiên phải tôn trọng tánh linh của mình. Còn nếu chẳng tôn trọng tánh linh của mình thì làm sao có thể ngưỡng mộ các đức Phật.
Ðó là trong ngoài đồng tu, tâm Phật đều trọng và không thiên chấp bên nào. Thì phần tinh tấn đạo càng thêm mau chóng. Ðến khi sức tột công thuần, toàn thể tương ưng. Thì biết chắc Phật kia chẳng qua là người đã đi trước chứng được cái tánh linh của mình đó thôi chớ có chi lạ. Còn cái tánh linh của mình thì cũng chẳng qua là cái bình đẳng với Phật đó thôi chớ có chi lạ!

4- Phái ngoài chẳng ngưỡng mộ các đức Phật mà trong chẳng tôn trọng tánh linh tri của mình:
Các người tu hành theo phái này có tôn chỉ: tâm và Phật đều quên, không có chổ nào nương dựa. Ngoài thì lợi cả thế giới, trong thì lột hết thân tâm. Một niệm chẳng sanh, muôn duyên đều dứt. Ðến lúc ngày lâu công thục. Y vào chỗ chứng nhập sâu thì tánh linh tri tỏ bày đồng như các Phật.
Ðó là tuy không ngưỡng mộ các đức Phật mà ngưỡng mộ một cách rất hay. Và tuy không tôn trọng tánh linh tri mà tôn trọng một cách chơn thiệt.

Trong 4 cách tu nói trên đây, thì người học Phật nên tự xét lấy tánh căn của mình ứng tu theo cách nào. Thì chỉ một đường đi tới thì trải qua một thời gian lâu. Công hạnh thuần thục đều chắc có phần tương ứng tất cả. Quyết chẳng nên sanh lòng vọng chấp. Buột miệng khinh bàn mà quí Pháp này chê Pháp khác. Hay thì cho Pháp nọ phải, dở thì thì cho Pháp kia quấy. Thì chẳng những trái với đạo mầu mà tạo thành sự chướng ngại cho phần mình thôi. Lại còn sợ hủy báng chánh pháp mà mang lấy tội lỗi thêm là khác.

Kinh Lăng Nghiêm nói: Chổ biết của các thánh lần lượt truyền cho lẫn nhau, là chỉ nói cái vọng tưởng không có tánh. Ngài Nhị tổ nói: Tìm cái tâm không thể được.
Kinh Hoa Nghiêm nói: Nếu sáng tỏ được một niệm duyên khởi, thì siêu việt cách thấy của tâm thừa quyền học.

Sách Khởi Tín Luận nói: Nếu có người quán được cái vô niệm, tức là người xu hướng về Phật trí.
Ðó là kinh Phật, lời tạo ra, cũng đều tới nơi một niệm hiện tiền mà chỉ điểm cho chúng ta rõ cái vọng tánh gốc nó vẫn không, chớ chẳng có chi lạ. ïNếu vọng đã gốc không, mà chơn đã gốc có. Thì tức là Phật chớ gì? Nhưng vì chúng sanh bị tùy theo cái duyên ô nhiễm đã bền lâu mà bây giờ chưa có thể đem liền lại được cái tánh bản không đó thôi.

Vậy nên ngày nay phải lấy duyên khởi thanh tịnh mà lần lần lay chuyển nó. Nghĩa là dùng cái nhơn tâm tức Phật của ta mà niệm công qủa Phật tức tâm của ta. Thì nhơn quả thông suốt lẫn nhau, Tâm và Phật tự nhiên bình đẳng.

Niệm công qủa Phật tức tâm của ta đã là gốc của lòng vô duyên Ðại Từ và đồng thể Ðại Bi không thể nghĩ lường được, không thể bàn được cho nên nó có thể ở trong niệm niệm lóng trong các thứ ô nhiễm, tròn rõ cái tánh ban không mà khế hợp nguồn linh và thẳng tới biển quả. Vậy thì cái duyên thanh tịnh có gì hơn đó nữa!
Nhưng trong lúc niệm cần phải buông hết các duyên chỉ giữ một niệm như cứu lửa cháy đầu, như để tang cha mẹ, như gà ấp trứng, như rồng nuôi châu. Ðừng kỳ vọng cái hiệu quả nhỏ nhen và đừng trông mong sự thành tựu mau chóng. Chỉ cứ nhất tâm thường niệm như vậy. Thì tự nhiên thân căn khí giới tùy theo tâm niệm chuyển biến trong chổ ngầm kín. Không phải chổ lòng phàm mắt thịt thấy được biết được.
Ðến khi báo mạng hết rồi, thì đức Phật A Di Ðà cùng các Thánh chúng hiện thân trước mặt hay hiện hóa mùi thơm lạ, hiện tiếng nhạc trời, cho đến hết thảy các tướng linh thoại ứng hiện. Người đời thấy vậy mới gọi là tịnh nghiệp thành tựu. Nhưng thật ra thành tựu tịnh nghiệp đã lâu rồi chứ đâu phải là lúc ấy, lúc này.

Lại Niệm Phật phải sanh 4 thứ tâm:
1- Ta từ vô thủy nhẫn lại đây, cứ tạo nghiệp mãi mãi đến thế, nên phải sanh lòng hổ thẹn.
2- Ta được nghe pháp môn niệm Phật này, nên phải sinh lòng vui mừng.
3- Vì nghiệp chướng che lấp ta từ hồi vô thỉ mà thành pháp môn niệm Phật khó nổi gặp được nên phải sanh lòng buồn đau.
4- Nghĩ Phật hết sức từ bi như vậy nên phải sanh lòng cảm thích.

Nếu trong 4 thứ tâm ấy mà có được một thì tịnh nghiệp chắc thành tựu ngay.

Lại niệm Phật phải cho lâu dài, chẳng nên gián đoạn nếu gián đoạn thì tịnh nghiệp càng khó nổi thành, nhưng lâu dài lại phải cho dõng mãnh, chẳng nên giải đãi. Nếu giải đãi thì tịnh nghiệp cũng không chắc được. Vì lâu dài mà chẳng dõng mãnh tức là phải lui, còn dõng mãnh mà chẳng lâu dài tức là khó tới.

Chúng ta cần phải biết: Ðương lúc niệm Phật chẳng nên có cái tưởng gì khác tức là chỉ. Lại trong lúc niệm Phật phải cho lâu lâu phân minh tức là quán. Ấy là trong một niệm chỉ quán gồm đủ. Và chẳng có pháp chỉ quán nào riêng cả.

Chỉ tức là cái nhơn của định. Ðịnh tức là cái qủa của chỉ. Quán tức là cái nhơn của huệ. Huệ tức là cái qủa của quán. Hễ một niệm chẳng sanh mà lâu lâu phân minh, tức là tịch mà chiếu. Còn mà lâu lâu phân minh mà một niệm chẳng sanh tức là chiếu mà tịch.

Nếu được như vậy, thì tịnh nghiệp chắc chắn thành công với quả bậc thượng phẩm. Từ một người nhẫn đến trăm ngàn muôn ức người đều tu như vậy thì đều thành tựu như vậy cả, quyết không sai chạy chút nào.

Thế nên người niệm Phật cần phải biết rõ.

HẾT

Hồi Hướng :
Nguyện đem công đức này.
Hướng về khắp tất cả.
Trang nghiêm cõi tịnh độ.
Cùng pháp giới chúng sanh.
Ðồng sanh cực lạc quốc.
Viên trọn thành Phật đạo.

WP: Mẫn Lê Từ Hỷ

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/02/2022(Xem: 7003)
Hai năm trước, khi tin Hòa Thượng Thích Minh Tâm viên tịch lan truyền khắp năm châu, ai ai cũng ngỡ ngàng thương tiếc. Hầu như các tự viện trên thế giới đều tổ chức lễ tưởng niệm tri ân Ngài. Tu Viện Quảng Đức cũng không ngoại lệ, buổi lễ truy niệm đã được tổ chức một cách trang nghiêm, trọng thể. Sau đó TT Thích Nguyên Tạng đã lên chương trình Hành Hương Âu Châu vào cuối tháng 7 năm 2015, với mục đích chính là tham dự lễ Đại Tường Tưởng Niệm HT Thích Minh Tâm, đồng thời dự lễ Khánh thành Chùa Khánh Anh. Phật tử TVQĐ thật hoan hỷ với tin này và đã cùng nhau lập ra kế hoạch tiết kiệm để tham dự chuyến Hành Hương Âu Châu.Thời gian hai năm tưởng là lâu, nhưng thoắt một cái ngày đi đã gần kề, mọi người nô nức chuẩn bị hành trang để lên đường. Phái đoàn Hành Hương có 83 người gồm:Melbourne: 38 người; Sydney: 21 người; Perth: 9 người;Adelaide: 5 người.
07/02/2022(Xem: 17948)
Kính đa tạ Thầy đã giới thiệu 14 lời vàng của HT Thích Trí Tịnh (1916-2014 ) một Bồ Tát thị hiện đã mang kho tàng kinh các đến với Phật Tử VN trong và ngoài nước nhưng cuối cùng di chúc để lại cho đời chỉ vỏn vẹn 14 lời vàng này lại là Kim Chỉ Nam cho những ai muốn tu tập giải thoát ( LÀM LÀNH-LÁNH DỮ-THƯƠNG NGƯỜI- THƯƠNG VẬT-ĂN CHAY-NIỆM PHẬT -TỤNG KINH ) và Bộ Toàn tập Kinh Hoa Nghiêm 4 quyển cũng như Ngũ Kinh Tịnh Độ mà Ngài đã thọ trì hằng ngày từ A lại da thức khởi phát.
24/01/2022(Xem: 5266)
Tuyển tập Hành Hương Tứ Đại Danh Sơn Trung Quốc 2007 do Tu Viện Quảng Đức tổ chức
19/01/2022(Xem: 5493)
Dân tộc Việt Nam học và hành theo giáo lý Phật thuyết trên dưới hai nghìn năm trước khi Pháp sư Huyền Trang quy Phật cũng trên sáu thế kỷ, tuy vậy cho đến nay chúng đệ tử Phật, xuất gia cũng như tại gia, biết đến công hạnh của Ngài rất ít, và cũng biết rất ít di sản Kinh Luận của Ngài cho Phật tử Việt nam học và hiểu giáo pháp của Đức Thế Tôn một cách chân chính để hành trì chân chính. Bản dịch Đại Đường Tây vực ký của Hòa Thượng Như Điển với sự đóng góp của Cư sĩ Nguyễn Minh Tiến bổ túc cho sự thiếu sót này. Từ những hiểu biết để thán phục, kính ngưỡng một Con Người vĩ đại, hãn hữu, trong lịch sử văn minh tiến bộ của nhân loại, một vị Cao Tăng thạc đức, với nghị lực phi thường, tín tâm bất hoại nơi giáo lý giải thoát, một thân đơn độc quyết vượt qua sa mạc nóng cháy mênh mông để tìm đến tận nguồn suối Thánh ngôn rồi thỉnh về cho dân tộc mình cùng thừa hưởng nguồn pháp lạc. Không chỉ cho dân tộc mình mà cho tất cả những ai mong cầu giải thoát chân chính.
04/01/2022(Xem: 6209)
Không hiểu sao mỗi khi nhớ về những sự kiện của năm 1963 lòng con bổng chùng lại, bồi hồi xúc động về quá khứ những năm đen tối xảy đến gia đình con và một niềm cảm xúc khó tả dâng lên...nhất là với giọng đọc của Thầy khi trình bày sơ lược tiểu sử Đức Ngài HT Thích Trí Quang ( một sưu tầm tài liệu tuyệt vời của Giảng Sư dựa trên “ Trí Quang tự truyện “ đã được đọc tại chùa Pháp Bảo ngày 12/11/2019 nhân buổi lễ tưởng niệm sự ra đi của bậc đại danh tăng HT Thích Trí Quang và khi online cho đến nay đã có hơn 45000 lượt xem). Và trước khi trình pháp lại những gì đã đươc nghe và đi sâu vào chi tiết bài giới thiệu Bộ Pháp Ảnh Lục cùng lời cáo bạch của chính Đức Ngài HT Thích Trí Quang về bộ sách này, kính trich đoạn vài dòng trong tiểu sử sơ lược của HT Thích Trí Quang do Thầy soạn thảo mà con tâm đắc nhất về;
04/01/2022(Xem: 5105)
Trên đất nước ta, rừng núi nào cũng có cọp, nhưng không phải vô cớ mà đâu đâu cũng truyền tụng CỌP KHÁNH HÒA, MA BÌNH THUẬN. Tỉnh Bình Thuận có nhiều ma hay không thì không rõ, nhưng tại tỉnh Khánh Hòa, xưa kia cọp rất nhiều. Điều đó, người xưa, nay đều có ghi chép lại. Trong sách Hoàng Việt Nhất Thống Dư Địa Chí (1) của Thượng Thư Bộ Binh Lê Quang Định soạn xong vào năm 1806 và dâng lên vua Gia Long (1802-1820), tổng cộng 10 quyển chép tay, trong đó quyển II, III và IV có tên là Phần Dịch Lộ, chép phần đường trạm, đường chính từ Kinh đô Huế đến các dinh trấn, gồm cả đường bộ lẫn đường thủy. Đoạn đường ghi chép về ĐƯỜNG TRẠM DINH BÌNH HÒA (2) phải qua 11 trạm dịch với đoạn đường bộ đo được 71.506 tầm (gần 132 km)
04/01/2022(Xem: 4120)
Ngoài tên “thường gọi” là Cọp, là Hổ, tiếng Hán Việt là Dần, cọp còn có tên là Khái, là Kễnh, Ba Cụt (cọp ba chân), Ba Ngoe (cọp ba móng), Ông Chằng hay Ông Kẹ, Ông Dài, Ông Thầy (cọp thành tinh). Dựa vào tiếng gầm của cọp, cọp còn có tên gọi là Hầm, là Hùm, dựa vào sắc màu của da là Gấm, là Mun ... Ở Nam Bộ cò gọi cọp là Ông Cả, vì sợ cọp quấy phá, lập miếu thờ, tôn cọp lên hàng Hương Cả là chức cao nhất trong Ban Hội Tề của làng xã Nam Bộ thời xưa. Cọp cũng được con người gọi lệch đi là Ông Ba Mươi. Con số ba mươi này có nhiều cách giải thích: - Cọp sống trung bình trong khoảng ba mươi năm. - Cọp đi ba mươi bước là quên hết mọi thù oán. - Xưa, triều đình đặt giải, ai giết được cọp thì được thưởng ba mươi đồng, một món tiền thưởng khá lớn hồi đó. - Tuy nhiên, cũng có thời, ai bắt, giết cọp phải bị phạt ba mươi roi, vì cho rằng cọp là tướng nhà Trời, sao dám xúc phạm (?). Ngày nay, cọp là loài vật quý hiếm, có trong sách Đỏ, ai giết, bắt loài thú này không những bị phạt tiền mà còn ở
30/12/2021(Xem: 5362)
Tối ngày 11/02 âm lịch (03/03/2012), vào lúc 10 giờ tối, lúc đó tôi niệm Phật ở dưới hai cái thất mà phía trên là phòng của Sư Ông. Khi khóa lễ vừa xong, bỗng nghe (thấy) tiếng của đầu gậy dọng xuống nền phát ra từ phòng của Sư Ông. Lúc đó tôi vội vàng chạy lên, vừa thấy tôi, Ông liền bảo: “Lấy cái đồng hồ để lên đầu giường cho Sư Ông và lấy cái bảng có bài Kệ Niệm Phật xuống” (trong phòng Sư Ông có treo cái bảng bài Kệ Niệm Phật). Khi lấy xuống Sư Ông liền chỉ vào hai câu: Niệm lực được tương tục, đúng nghĩa chấp trì danh, rồi Sư Ông liền chỉ vào mình mà ra hiệu, ý Sư Ông nói đã được đến đây, sau khi ngồi hồi lâu Sư Ông lên giường nghỉ tiếp.
25/12/2021(Xem: 3908)
Cảo San đường Tuệ Nguyên Đại Tông sư (고산당 혜원대종사, 杲山堂 慧元大宗師) sinh ngày 8 tháng 12 năm 1933 tại huyện Ulju, Ulsan, một thành phố nằm ở phía đông nam Hàn Quốc, giáp với biển Nhật Bản. Ngài vốn sinh trưởng trong tộc phả danh gia vọng tộc, phụ thân Họ Ngô (해주오씨, 海州吳氏), Haeju, Bắc Triều Tiên và tộc phả của mẫu thân họ Park (밀양박씨, 密陽朴氏), Miryang, Gyeongsangnam-do, Hàn Quốc. Năm lên 7 tuổi, Ngài được sự giáo huấn của người cha kính yêu tuyệt vời, cụ đã dạy các bộ sách Luận ngữ, Mạnh Tử, Thích Độ, Đại Học, Tứ Thư và học trường tiểu học phổ thông. Vào tháng 3 năm Ất Dậu (1945), khi được 13 tuổi, Bồ đề tâm khai phát để làm tiền đề cho Bát Nhã đơm bông, Ngài đảnh lễ Đại Thiền sư Đông San Tuệ Nhật (동산혜일대선사, 東山慧日大禪師, 1890-1965) cầu xin xuất gia tu học Phật pháp. Thật là “Đàm hoa nhất hiện” khi những sợi tóc não phiền rơi rụng theo từng nhát kéo đong đưa. Tháng 3 năm 1948, Ngài được Hòa thượng Bản sư truyền thụ giới Sa di tại Tổ đình Phạm Ngư Tự (범어사, 梵魚寺), Geumjeong-gu, Busan, Hàn Qu
23/12/2021(Xem: 3016)
Chánh Điện của một ngôi Chùa tại xứ Đức, cách đây hơn 40 năm về trước; nơi có ghi hai câu đối: "Viên thành đạo nghiệp Tây Âu quốc. Giác ngộ chúng sanh đạo lý truyền", bây giờ lại được trang hoàng thật trang nghiêm và rực rỡ với các loại hoa. Đặc biệt nhất vẫn là những chậu cây Trạng Nguyên nhỏ to đủ kiểu, nổi bật nhất vẫn là những chiếc lá đỏ phía trên phủ lên những chiếc lá xanh bên dưới. Ai đã có ý tưởng mang những cây Nhất Phẩm Hồng, có nguồn gốc ở miền Nam Mexico và Trung Mỹ vào đây? Và theo phong thủy, loại cây này mang đến sự thành công, đỗ đạt và may mắn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567