Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bạch Thư

14/06/201212:06(Xem: 15315)
Bạch Thư

TUỆ SỸ ĐẠO SƯ

Thơ và Phương Trời Mộng - Tập 2


Tác giả: Nguyên Siêu
Ban Tu Thư Phật Học Hải Đức Nha Trang
In lần thứ nhất
California - Hoa Kỳ 2006

flowerba

GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT

VIỆN HÓA ĐẠO

BẠCH THƯ

về Nghị Quyết 427 của Quốc HộiHoa Kỳ (thông qua ngày 11/19/2003)

& Nghị Quyết của Quốc Hội ÂuChâu (thông qua ngày 20.11.2003)

Theocông bố của Văn phòng Quốc Hội Hoa Kỳ, ngày 19 tháng 11, Hạ Nghị Viện Hoa Kỳ đãbỏ phiếu thuận 409, phản đối 13, Nghị Quyết 427 bảo trợ bởi Bà Loretta Sanchez,dân biểu Bang California, đồng bảo trợ 22 Dân biểu. Nội dung Nghị Quyết: “Bày rỏ cảm tình củaViện Dân biểu Hoa Kỳ đối với ban Chỉ đạo dũng cảm của Giáo Hội Phật Giáo ViệtNam Thống Nhất, và yêu cầu khẩn thiết cho tự do tôn giáo và các quyền con ngườiliên hệ tại nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.”

Tiếptheo đó, kể từ ngày 20 tháng 11, 2003, hầu hết các báo chí, đài phát thanh vàtruyền hình trong nước đã lên tiếng phản đối Hoa Kỳ chen vào công việc nội bộ củaViệt Nam, cũng như khẳng định “đường lối trước sau như một của Đảng và Nhà nướcluôn luôn tôn trọng tự do tín ngưỡng.”

Vì Nghị Quyết liên hệ đến Giáo Hội Phật GiáoViệt Nam Thống Nhất, do đó, Ban Chỉ Đạo Viện Hóa Đạo thấy cần phải bày bỏ quan điểmvà lập trường của Giáo Hội để Tăng Ni, Phật tử, cùng đồng bào trong và ngoài nướccó cơ sở tham chiếu, ngoài quan điểm đơn phương của các phương tiện truyềnthông đại chúng Việt Nam dưới sự kiểm soát của Nhà nước Cộng sản.

1. Trước hết,việc đệ trình Quốc HộiHoa Kỳ hay thông qua Nghị Quyết bởi các Dân biểu Hoa Kỳ, đó là vấn đề nội bộ củaHoa Kỳ. Hội Đồng Lưỡng Viện, cũng nhưBan Chỉ đạo Viện Hóa Đạo không có thẩm quyền hay tư cách gì để can thiệp.

Tuynhiên, trong phát biểu của mình trước Quốc Hội, khẳng định lý do Nghị Quyết 427được đệ trình, Bà Dân biểu Loretta Sanchez nói rõ: “Tôi đại diện cho cộng độngngười Việt lớn nhất ngoài Việt Nam trên thế giới, tại Quận Cam, bangCalifornia.” Chúng ta biết, sau 1975, khi chế độ Việt Nam Cộng Hòa sụp đổ, mộtsố lớn đồng bào miền Nam đã rời bỏ quê hương tị nạn tại nhiều nước trên thế giới. Ngày nay, họ là công dân của những nước đã cưumang họ, hưởng quyền lợi và có các bổn phận như các công dân thuộc các cộng đồngkhác. Một trong các bổn phận căn bản là đóngthuế. Một trong các quyền lợi căn bản làsử dụng lá phiếu để quyết định Chính quyền.

Dùphải sống lưu vong, nhưng đại bộ phận người Việt nước ngoài không thể quên quêhương, cội nguồn. Họ có bổn phận với đấtnước đang cưu mang họ, đồng thời cũng còn mang trong tâm tư bổn phận thiêngliêng khác: đó là sự tồn vong, thăng trầm hay vinh nhục, của Tổ quốc, của giốngnòi. Vì vậy, họ đã sử dụng lá phiếu củamình gây ảnh hưởng đối với Chính quyền đương quốc để binh vực quyền lợi chothân nhân, đồng đạo cũng như đồng bào của mình trong nước, mà họ cho rằng đangbị khống chế hay áp bức. Đồng bào Việt đãgây ảnh hưởng như thế nào đối với Chính quyền sở tại, và Chính quyền ở đó đáp ứngnhư thế nào, đó là vấn đề nội bộ của nước đó.

ĐảngCộng sản, kể từ khi mở cửa, sau khi thành trì bách chiến bách thắng của chủ nghĩaxã hội là Liên Xô sụp đổ, rõ ràng đã có thay đổi tư duy, đã không còn xem ngườiViệt tị nạn nước ngoài là “bọn phản quốc chạy theo đế quốc tư bản,”màbây giờ là một bộ phận không thể chia cắt của dân tộc, nghĩa là cũng được đối xửbình đẳng như đồng bào trong nước, cũng được thừa nhận là còn có nghĩa vụthiêng liêng đối với Tổ quốc. Cho nên, tạiWashington D.C có Tòa Đại sứ Việt Nam, tại California có Tòa Tổng Lãnh sự để nhắcnhở người Việt lưu vong một thời phản quốc đừng quên giống nòi và Tổ Quốc Xã HộiChủ Nghĩa. Đảng CS Việt Nam còn đượcphép, nghĩa là một cách hợp pháp, tổ chức những nhóm người Việt chấp nhận Chủnghĩa Xã hội công khai vận động ủng hộ và ca ngợi Đảng Cộng sản vinh quang,ngay trên đất Mỹ, được phép mở các kênh truyền hình giới thiệu đất nước ViệtNam giàu đẹp dưới tài lãnh đạo sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam, đỉnh cao củatrí tuệ loài người. Đảng và Nhà nước có đủtất cả phương tiện mà nước Mỹ dành cho để chỉ cho đồng bào Việt kiều thấy đâulà vinh quang và đâu là sỉ nhục của Tổ quốc để tự do lựa chọn. Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất không đủtầm vóc để tuyên truyền như vậy.

Ngaycả trong nước, GHPGVNTN không có bất cứ phương tiện truyền thông nào để xácminh việc làm của mình, mà theo đó đồng bào và Phật tử có quyền tự do phêphán. Thế nhưng, thậm chí khi bộ Ngoạigiao công bố trước dư luận thế giới rằng Hòa thượng Huyền Quang và Hòa ThượngQuảng Độ, cùng các Thượng tọa, Đại đức khác bị bắt giữ tại đồn Công an Biênphòng Lương Sơn, vì “có mang giữ tài liệu bí mật quốc gia.” Điều đó không chỉphạm luật Nhà nước, mà còn phạm giới Nhà tu. Dù bị lăng nhục như vậy, nhưng Giáo Hội không có bất cứ quyền hạn nào đểtự xác minh trước sự vu khống và xúc phạm quá đáng đối với các bậc Cao tăng màPhật tử kính trọng. Nếu Tăng Ni trẻtrong nước có tò mò tìm đọc các thông tin từ trên mạng để tìm hiểu sự thực, thìbị hăm dọa trục xuất khỏi chùa, khỏi tu viện. Nghĩa là trường hợp phạm giới nặng xét theo luật Nhà Chùa. Trong trường hợp như vậy đồng bào và Phật tửnước ngoài có toàn quyền tự do phê phán, và tự thấy cần phải làm gì để trân trọngphẩm giá của những người mà mình tôn kính. Và họ đã sử dụng lá phiếu để yêu cầu Chính quyền sở tại, hoặc tán thànhhoặc phản đối hành vi Nhà nước Cộng sản. Ban Chỉ Đạo Viện Hóa Đạo không đủ tầm vóc để gây ảnh hưởng đó, bởi vìhai vị Đại lão Hòa thượng lãnh đạo tối cao của Giáo Hội bị cách ly, các Thượngtọa thành viên Ban Chỉ Đạo Viện Hóa Đạo phần lớn bị quản chế, hoặc bị hăm dọa,sách nhiễu.

2. Thứhai,các phương tiện truyền thông đại chúng trongnước đã cho thấy rõ ý nghĩa: vấn đề Phật Giáo Việt Nam là vấn đề nội bộ của nướcViệt Nam. Điều đó đúng. Nhưng cũng cần phải xác định, trong giới hạnnào thì được gọi là nội bộ. Có thể nóingay rằng, những vấn đề của các hội đoàn nhân dân khác, như Hội Liên hiệp Phụ nữ,Hội Liên hiệp Thanh niên, hay Hội Những người cao tuổi, là những vấn đề nội bộ,hoàn toàn bị chi phổi bởi luật pháp Việt Nam trong thời gian nào đó và trong phạmvi lãnh thổ Việt Nam. Vượt ngoài giới hạnthời gian và không gian ấy, những hội đoàn ấy không tồn tại. Ý nghĩa nội bộ lại càng chặt chẽ hơn nữa, khicác hội đoàn nhân dân này là một bộ phận tổ chức quần chúng của Đảng. Ngay cả bản thân của Đảng Cộng sản Việt Nam,vượt qua giới hạn thời gian và không gian, trong chừng mực nhất định, cũng hoàntoàn không tồn tại.

Đốivới Phật Giáo, dù được tổ chức dưới hình thái nào, không hoàn toàn lệ thuộc giớihạn thời gian và không gian như vừa nói. Trải qua trên hai mươi lăm thế kỷ truyền bá, trên toàn bộ khu vực Á châurộng lớn, và ngày nay trên toàn thế giới, là một thực thể xã hội trong cộng đồngnhân loại. Phật Giáo Việt Nam có bản sắcriêng, nhưng không thể nói hoàn toàn khác biệt với Phật Giáo tại các nướckhác. Do ảnh hưởng hỗ tương về mọi mặt,kể cả mặt tổ chức, nên Phật Giáo Việt Nam không thể tự tách mình biệt lập vớiPhật Giáo như một tôn giáo toàn cầu. Cónhững sắc thái đặc thù của mỗi dân tộc, nhưng không thể phủ nhận tính phổquát. Với nhận thức như vậy, vấn đề PhậtGiáo, Việt Nam hay không phải Việt Nam, đều không hoàn toàn là công việc nội bộcủa một nước.

Tất nhiên, khi truyền bá vào đất nước nào, PhậtGiáo thích ứng với phong tục, tập quán của nước đó, và cũng phải sinh hoạttrong khuôn khổ luật pháp của nước đó. Nhưng không phải vì vậy mà Phật Giáo hoàn toàn lệ thuộc vào luật pháp củanước đó. Luật pháp của mỗi chế độ đều cóchức năng bảo vệ sự tồn tại của chế độ đó. Ngay trong một chế độ, luật pháp cũng phải thay đổi theo thời đại, theotổ chức quản lý xã hội của chế độ trong từng giai đoạn. Và trên hết, trong lịch sử chính trị, chưa cóchế độ chính trị nào tồn tại vĩnh viễn. Điềuchắc chắn, chế độ chính trị này có thể sụp đổ, được thay thế bằng chế độ chínhtrị khác, và do vậy cũng thay đổi luôn nội dung của luật pháp. Trong trường hợp như vậy, Phật Giáo vẫn tồn tại. Đó là sự thực lịch sử. Cho nên, không một chế độ nào có thể buộc chặtPhật Giáo vào sinh mệnh tồn tại của mình, để rồi khi nó sụp đổ, kéo theo cả sựsụp đổ của Phật Giáo. Một vài vị lãnh đạoPhật Giáo Việt Nam do không thấy điều này, mà là điều hiển nhiên trong lời dạycủa Phật: “cái gì có sinh thì có diệt”hoặc thấy, biết nhưng không thểlàm khác đi được vì nhiều lý do, hoặc có vị cũng thấy, biết nhưng, để cho quyềnlợi vật chất chi phối, sẵn sàng tuân theo ý chí của Đảng, bằng bất cứ giá nàophải đưa toàn bộ Phật Giáo Việt Nam vào làm một bộ phận chính trị quần chúng củaĐảng để bảo vệ sự tồn tại lâu dài của Đảng. Như thế, thịnh suy của Đảng, thậm chí cả đến sự trong sạch hay thoái hóacủa Đảng, cũng kéo theo số phận của Phật Giáo Việt Nam.

Bản thân của Phật Giáo cũng không phải là vĩnhviễn. Đức Phật chưa bao giờ nói giáopháp của Ngài tồn tại vĩnh viễn, mà những gì được nói thành lời đều là hữu vido đó phải chịu tác động sinh diệt. Nhưngkhông phải vì thế mà Phật Giáo mất hay còn tùy thuộc vào số phận của bất cứ tổchức hay đảng phái chính trị nào.

Chínhvì Phật Giáo, trong bản chất, không thể là một bộ phận của Đảng CS Việt Nam,nên vấn đề Phật Giáo không phải là vấn đề nội bộ của nước Việt Nam mà người làmchủ duy nhất hiện tại là Đảng Cộng sản Việt Nam.

Cóthể một số sư tăng hay Phật tử chấp nhận lý tưởng xã hội chủ nghĩa, cho rằng chỉcó thể đem lại hạnh phúc cho xã hội loài người khi mà xã hội xã hội chủ nghĩa đượcxây dựng thành công, trong đó không có giai cấp bóc lột và do đó tôn giáo cũngkhông còn chức năng lịch sử nữa, nghĩa là không còn tồn tại. Các sư tăng và Phật tử ấy có quyền tự do, vàchắc chắn Phật cũng không cấm, họp nhau lại lập thành một Giáo Hội rồi tự nguyệnphó thác sinh mạng của Giáo Hội ấy trong tay các đảng viên cộng sản, những chiếnsỹ xung kích xây dựng chủ nghĩa xã hội, đấu tranh cho một xã hội không giai cấpvà không tôn giáo. Mọi hình thái tổ chứcvà sinh hoạt của Giáo Hội ấy hoàn toàn tùy thuộc sự chỉ đạo của Đảng Cộng sản. Từ trên cao, ai được chỉ định làm Pháp chủ,cho đến dưới hạ tầng, ai được chỉ định làm Chánh đại diện Phật Giáo quận huyện;đó hoàn toàn là công việc nội bộ của đảng Cộng sản. Vì đảng là người duy nhất lãnh đạo đất nước,cho nên công việc đảng là công việc của nước.

Ý nghĩa vấn đề Phật Giáo Việt Nam là vấn đề nộibộ của nước Việt Nam cần phải được nhận thức trong bối cảnh như vậy. Tất nhiên, đây là Phật Giáo của đảng cộng sảnViệt Nam, một thứ Phật Giáo đang cố hóa thân để trở thành chủ nghĩa xã hội.

Nhữngtăng ni Phật tử khác không chấp nhận điều đó, mặc dù không phủ nhận nhưng cũngkhông thừa nhận chủ nghĩa xã hội là cứu cánh chân lý, có quyền tư duy và sinhhoạt theo những gì mình học và hiểu từ kinh Phật. Không thể bức ép họ tập họp làm thành một bộphận của đảng cộng sản. Trong gần ba thậpkỷ qua, giết tróc, tử hình, tù đày, lăng nhục, tất cả vẫn không làm sờn lòng,thoái chí, của những người quyết tâm đi thẳng theo con đường mà mình đã lựa chọn.

3. Trong nhiều trường hợp,để tránh né vấn đề có tính cách tế nhị trên phương diện luật pháp, Nhà nước ViệtNam, mà thường xuyên là bộ Ngoại giao khi phải trả lời dư luận quốc tế về hiệntình của Phật Giáo Việt Nam, trích dẫn lời phát biểu của các lãnh đạo của GiáoHội của Mặt Trận, luôn luôn khẳng định, người đại diện duy nhất của Phật GiáoViệt Nam hiện tại là Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam. Vì được thừa nhận là đại diện hợp pháp duy nhất,nên khi tổ chức này nói: “không có đàn áp tôn giáo tại Việt Nam”, đảng CSVN muốnrằng cả thế giới, trong cũng như ngoài nước, phải hiểu rằng không có đànáp.

Tuynhiên, Mặt Trận là tổ chức chính trị quần chúng của Đảng Cộng sản. Thế thì tuyên bố của một tổ chức dưới quyềnlãnh đạo của Mặt Trận, dù được gọi là Giáo Hội hay Hiệp hội, cũng vẫn là tuyênbố của Mặt Trận, nghĩa là, chính thức là của đảng CS. Mặt Trận là một tổ chức chính trị của đảngCSVN, thì phạm vi hoạt động cũng chỉ giới hạn trong lãnh thổ Việt Nam màthôi. Theo hệ luận, trên nguyên tắc vàchỉ trên nguyên tắc mà thôi, Giáo Hội nào là thành viên của Mặt Trận, thì phạmvi sinh hoạt của nó cũng không thể vượt ngoài tầm ảnh hưởng của Mặt Trận. Nói là trên nguyên tắc, vì trong thực tế, khiđảng CSVN muốn vươn tầm tay ra ngoài thế giới để tập hợp số người Việt lưu vongtrước đây được xem là phản quốc nay được đảng “tha thứ” cho hướng về quê hương đểxây dựng tổ quốc xã hội chủ nghĩa, khi ấy đảng cần điều động Giáo Hội của MặtTrận làm đội quân thứ năm, bấy giờ đảng sẽ cho làm lại căn cước khác: Giáo Hộithuần túy chứ không phải là thành viên của Mặt Trận.

Mặcdù được Nhà nước yểm trợ bằng tất cả mọi phương tiện cần thiết, nhưng không hiểusao cho đến nay Giáo Hội ấy vẫn chưa hoàn toàn lột xác khỏi Mặt Trận để xứng đángtầm vóc lãnh đạo đại bộ phận Phật tử Việt Nam hải ngoại, để hoàn thành xuất sắcnhiệm vụ mà đảng giao phó là tập hợp quần chúng chung quanh đảng.

Ngàynay, cùng chung số phận với đại khối đồng bào, một bộ phận lớn Phật tử Việt Namtìm đường vượt biên tị nạn CS, định cư trong các quốc gia phát triển hàng đầu củathế giới, khắp từ châu Mỹ, châu Âu, châu Úc. Châu Á là bản địa của Phật Giáo, và sự định cư của Phật tử tại các nước ởđó cũng không phải là ít. Trong bối cảnhđó, bờ cõi Việt Nam không rộng lớn thêm và Nhà nước Việt Nam mặc dù là Nhà nướcthống nhất cả hai miền Nam Bắc nhưng phạm vi vẫn không thể vượt qua các đườngranh hải phận và đất liền; nhưng quả thực Phật Giáo Việt Nam đã vượt qua bờ cõicủa Tổ quốc.

Vìquốc vận đảo điên nên phải lìa xa quê hương, nhưng người Việt lưu vong đã khôngquên cội nguồn, trong đó có Phật Giáo. Họkhông thể nói: “Tôi là công dân của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam”, nhưng họ có đủ quyền tự do và được cáccông ước quốc tế bảo vệ để có thể nói: “Tôi là Phật tử Việt Nam.”Vì vậyNhà nước Việt Nam không có quyền hạn gì với họ. Trái lại, các Thầy và các Sư cô Việt Nam, ở trong hay ngoài nước, theoGiáo Hội này hay theo Giáo Hội kia, đều có thể có ảnh hưởng nào đó trong đời sồngthường nhật của các Phật tử ấy, và họ tự do lựa chọn vị Thầy thích hợp cơ duyêncho đời sống tâm linh của mình. Khi họnghĩ rằng các Thầy của mình đang bị áp chế, họ tự thấy có bổn phận chiếu cố. Đó là đạo nghĩa của con người, sống và hành độngđúng theo lương tâm và nhận thức. Tuy làthân phận lưu vong, nhưng là công dân của quốc gia dân chủ, có đủ quyền lợi vànghĩa vụ như các công dân khác, không phân biệt chủng tộc; họ sử dụng quyềncông dân của mình, bày tỏ quan điểm của mình bằng lá phiếu. Kết án các Tăng Ni Phật tử trong nước khôngkhứng chịu chấp nhận làm thành viên của Mặt Trận Tổ quốc Việt Nam là “biến chất,thoái hóa”; kết án các Phật tử định cư nước ngoài nghĩ đến Thầy tổ của mình bằnglá phiếu dân chủ là bọn “phản động lưu vong”; tố cáo các Chính quyền làm theo điềumà cử tri muốn là “thế lực thù địch”; những vị có tư tưởng phê phán như vậy nênxét lại vấn đề, hãy chiêm nghiệm thực tế để đừng nhầm lẫn lý tưởng phụng sựChánh pháp với mục tiêu phục vụ thế quyền. Không có cái gì dựa trên sự dối trá mà có thể tồn tại lâu dài.

4. NghịQuyết 427 được thông qua tại Viện Dân biểu Hoa Kỳ ởWashington DC, ngày 19/11/2003 lúc 4:27pm (giờ địa phương) với 409 phiếu thuậntrên 13 phiếu chống; và Nghị Quyết của Quốc Hội Âu Châu thông qua lúc 17 giờchiều thứ năm, 20.11.2003, với đa số tuyệt đối của 626 Dân biểu; sự thông quahai Nghị Quyết tại hai diễn đàn dân chủ có tầm ảnh hưởng quyết định hàng đầu củathế giới đã phản ảnh rất rõ hình ảnh của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhấttrong các cộng đồng quốc tế.

5. Trong hiện tình của Giáo HộiPhật Giáo Việt NamThống Nhất trong nước, trong khi hai vị Đại lão Hòa thượng lãnh đạo tối cao bịcách ly, và một số các Thượng tọa trong Tân Ban Chỉ Đạo Viện Hóa Đạo bị quản chế,nên chỉ có thể tổ chức cuộc hội kiến nhỏ không theo một nghị trình và địa điểmcố định, do đó không thể thảo luận chi tiết mọi khía cạnh của vấn đề. Nhưng cấp thiết, trong giới hạn cho phép, BanChỉ Đạo Viện Hóa Đạo tự thấy có trách nhiệm, dưới hình thức phổ biến Bạch Thư,nêu quan điểm và lập trường của Giáo Hội để Phật tử và đồng bào có cơ sở phán đoáncác nguồn thông tin và bình luận của các phương tiện truyền thông đại chúngtrong nước liên quan đến hai Nghị Quyết đã đề cập trên.

Phật lịch 2547,

Tháng11. ngày 22, 2003

TUNHòa Thượng Viện Trưởng

Thaymặt Ban Chỉ Đạo Viện Hóa Đạo

Đệnhất Phó Viện trưởng

ThíchTuệ Sỹ

(ẤnKý)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
19/01/2022(Xem: 7489)
Dân tộc Việt Nam học và hành theo giáo lý Phật thuyết trên dưới hai nghìn năm trước khi Pháp sư Huyền Trang quy Phật cũng trên sáu thế kỷ, tuy vậy cho đến nay chúng đệ tử Phật, xuất gia cũng như tại gia, biết đến công hạnh của Ngài rất ít, và cũng biết rất ít di sản Kinh Luận của Ngài cho Phật tử Việt nam học và hiểu giáo pháp của Đức Thế Tôn một cách chân chính để hành trì chân chính. Bản dịch Đại Đường Tây vực ký của Hòa Thượng Như Điển với sự đóng góp của Cư sĩ Nguyễn Minh Tiến bổ túc cho sự thiếu sót này. Từ những hiểu biết để thán phục, kính ngưỡng một Con Người vĩ đại, hãn hữu, trong lịch sử văn minh tiến bộ của nhân loại, một vị Cao Tăng thạc đức, với nghị lực phi thường, tín tâm bất hoại nơi giáo lý giải thoát, một thân đơn độc quyết vượt qua sa mạc nóng cháy mênh mông để tìm đến tận nguồn suối Thánh ngôn rồi thỉnh về cho dân tộc mình cùng thừa hưởng nguồn pháp lạc. Không chỉ cho dân tộc mình mà cho tất cả những ai mong cầu giải thoát chân chính.
04/01/2022(Xem: 8400)
Không hiểu sao mỗi khi nhớ về những sự kiện của năm 1963 lòng con bổng chùng lại, bồi hồi xúc động về quá khứ những năm đen tối xảy đến gia đình con và một niềm cảm xúc khó tả dâng lên...nhất là với giọng đọc của Thầy khi trình bày sơ lược tiểu sử Đức Ngài HT Thích Trí Quang ( một sưu tầm tài liệu tuyệt vời của Giảng Sư dựa trên “ Trí Quang tự truyện “ đã được đọc tại chùa Pháp Bảo ngày 12/11/2019 nhân buổi lễ tưởng niệm sự ra đi của bậc đại danh tăng HT Thích Trí Quang và khi online cho đến nay đã có hơn 45000 lượt xem). Và trước khi trình pháp lại những gì đã đươc nghe và đi sâu vào chi tiết bài giới thiệu Bộ Pháp Ảnh Lục cùng lời cáo bạch của chính Đức Ngài HT Thích Trí Quang về bộ sách này, kính trich đoạn vài dòng trong tiểu sử sơ lược của HT Thích Trí Quang do Thầy soạn thảo mà con tâm đắc nhất về;
04/01/2022(Xem: 7172)
Trên đất nước ta, rừng núi nào cũng có cọp, nhưng không phải vô cớ mà đâu đâu cũng truyền tụng CỌP KHÁNH HÒA, MA BÌNH THUẬN. Tỉnh Bình Thuận có nhiều ma hay không thì không rõ, nhưng tại tỉnh Khánh Hòa, xưa kia cọp rất nhiều. Điều đó, người xưa, nay đều có ghi chép lại. Trong sách Hoàng Việt Nhất Thống Dư Địa Chí (1) của Thượng Thư Bộ Binh Lê Quang Định soạn xong vào năm 1806 và dâng lên vua Gia Long (1802-1820), tổng cộng 10 quyển chép tay, trong đó quyển II, III và IV có tên là Phần Dịch Lộ, chép phần đường trạm, đường chính từ Kinh đô Huế đến các dinh trấn, gồm cả đường bộ lẫn đường thủy. Đoạn đường ghi chép về ĐƯỜNG TRẠM DINH BÌNH HÒA (2) phải qua 11 trạm dịch với đoạn đường bộ đo được 71.506 tầm (gần 132 km)
04/01/2022(Xem: 6080)
Ngoài tên “thường gọi” là Cọp, là Hổ, tiếng Hán Việt là Dần, cọp còn có tên là Khái, là Kễnh, Ba Cụt (cọp ba chân), Ba Ngoe (cọp ba móng), Ông Chằng hay Ông Kẹ, Ông Dài, Ông Thầy (cọp thành tinh). Dựa vào tiếng gầm của cọp, cọp còn có tên gọi là Hầm, là Hùm, dựa vào sắc màu của da là Gấm, là Mun ... Ở Nam Bộ cò gọi cọp là Ông Cả, vì sợ cọp quấy phá, lập miếu thờ, tôn cọp lên hàng Hương Cả là chức cao nhất trong Ban Hội Tề của làng xã Nam Bộ thời xưa. Cọp cũng được con người gọi lệch đi là Ông Ba Mươi. Con số ba mươi này có nhiều cách giải thích: - Cọp sống trung bình trong khoảng ba mươi năm. - Cọp đi ba mươi bước là quên hết mọi thù oán. - Xưa, triều đình đặt giải, ai giết được cọp thì được thưởng ba mươi đồng, một món tiền thưởng khá lớn hồi đó. - Tuy nhiên, cũng có thời, ai bắt, giết cọp phải bị phạt ba mươi roi, vì cho rằng cọp là tướng nhà Trời, sao dám xúc phạm (?). Ngày nay, cọp là loài vật quý hiếm, có trong sách Đỏ, ai giết, bắt loài thú này không những bị phạt tiền mà còn ở
30/12/2021(Xem: 6986)
Tối ngày 11/02 âm lịch (03/03/2012), vào lúc 10 giờ tối, lúc đó tôi niệm Phật ở dưới hai cái thất mà phía trên là phòng của Sư Ông. Khi khóa lễ vừa xong, bỗng nghe (thấy) tiếng của đầu gậy dọng xuống nền phát ra từ phòng của Sư Ông. Lúc đó tôi vội vàng chạy lên, vừa thấy tôi, Ông liền bảo: “Lấy cái đồng hồ để lên đầu giường cho Sư Ông và lấy cái bảng có bài Kệ Niệm Phật xuống” (trong phòng Sư Ông có treo cái bảng bài Kệ Niệm Phật). Khi lấy xuống Sư Ông liền chỉ vào hai câu: Niệm lực được tương tục, đúng nghĩa chấp trì danh, rồi Sư Ông liền chỉ vào mình mà ra hiệu, ý Sư Ông nói đã được đến đây, sau khi ngồi hồi lâu Sư Ông lên giường nghỉ tiếp.
25/12/2021(Xem: 5284)
Cảo San đường Tuệ Nguyên Đại Tông sư (고산당 혜원대종사, 杲山堂 慧元大宗師) sinh ngày 8 tháng 12 năm 1933 tại huyện Ulju, Ulsan, một thành phố nằm ở phía đông nam Hàn Quốc, giáp với biển Nhật Bản. Ngài vốn sinh trưởng trong tộc phả danh gia vọng tộc, phụ thân Họ Ngô (해주오씨, 海州吳氏), Haeju, Bắc Triều Tiên và tộc phả của mẫu thân họ Park (밀양박씨, 密陽朴氏), Miryang, Gyeongsangnam-do, Hàn Quốc. Năm lên 7 tuổi, Ngài được sự giáo huấn của người cha kính yêu tuyệt vời, cụ đã dạy các bộ sách Luận ngữ, Mạnh Tử, Thích Độ, Đại Học, Tứ Thư và học trường tiểu học phổ thông. Vào tháng 3 năm Ất Dậu (1945), khi được 13 tuổi, Bồ đề tâm khai phát để làm tiền đề cho Bát Nhã đơm bông, Ngài đảnh lễ Đại Thiền sư Đông San Tuệ Nhật (동산혜일대선사, 東山慧日大禪師, 1890-1965) cầu xin xuất gia tu học Phật pháp. Thật là “Đàm hoa nhất hiện” khi những sợi tóc não phiền rơi rụng theo từng nhát kéo đong đưa. Tháng 3 năm 1948, Ngài được Hòa thượng Bản sư truyền thụ giới Sa di tại Tổ đình Phạm Ngư Tự (범어사, 梵魚寺), Geumjeong-gu, Busan, Hàn Qu
23/12/2021(Xem: 3965)
Chánh Điện của một ngôi Chùa tại xứ Đức, cách đây hơn 40 năm về trước; nơi có ghi hai câu đối: "Viên thành đạo nghiệp Tây Âu quốc. Giác ngộ chúng sanh đạo lý truyền", bây giờ lại được trang hoàng thật trang nghiêm và rực rỡ với các loại hoa. Đặc biệt nhất vẫn là những chậu cây Trạng Nguyên nhỏ to đủ kiểu, nổi bật nhất vẫn là những chiếc lá đỏ phía trên phủ lên những chiếc lá xanh bên dưới. Ai đã có ý tưởng mang những cây Nhất Phẩm Hồng, có nguồn gốc ở miền Nam Mexico và Trung Mỹ vào đây? Và theo phong thủy, loại cây này mang đến sự thành công, đỗ đạt và may mắn.
10/12/2021(Xem: 8488)
Bản dịch này cũng đã đăng tải trong các số báo đặc san Pháp Bảo, từ số 2, tháng 5 năm 1982 và còn tiếp tục đăng tải cho đến nay. Loạt bài đăng trong báo sẽ được chấm dứt trong vài kỳ báo nữa, vì các phần sau tuy cần thiết đối với người muốn nghiên cứu, nhưng lại trở nên khô khan với người ít quan tâm tới sử liệu Phật Giáo. Đó là lý do quý vị chỉ tìm thấy bản dịch được đầy đủ chỉ có trong sách này. Trong khi dịch tác phẩm, cũng như trong khoảng thời gian còn tòng học tại Nhật Bản, chúng tôi tự nghĩ: không hiểu sao Phật giáo đã du nhập vảo Việt Nam từ thế kỷ thứ 2, thứ 3 mà mãi cho tới nay vẫn chưa có được những cuốn sách ghi đầy đủ các chi tiết như bộ “Các tông phái Phật Giáo Nhật Bản” mà quý vị đang có trong tay. Điều mong mỏi của chúng tôi là Phật Giáo Việt Nam trong tương lai cố sao tránh bớt vấp phải những thiếu sót tư liệu như trong quá khứ dài hơn 1500 năm lịch sử truyền thừa! Để có thể thực hiện được điều này, cần đòi hỏi giới Tăng Già phải đi tiên phong trong việc trước t
09/12/2021(Xem: 22887)
Cách đây vài ngày đọc trên một tờ báo tại Sydney , khi nói về chủng thể Omicron vừa phát tán và lây lan do xuất phát từ các nước Nam Phi , tôi chợt mỉm cười khi đọc được câu này " Chúng ta đã học từ nạn đại dịch một điều rằng : Đừng nên hy vọng một điều gì , vì chắc chắn điều mình hy vọng ấy sẽ chỉ là THẤT VỌNG " If there’s one thing COVID has taught us , it is to expect nothing, except disappointment . What it comes to that COVID really delivers
08/12/2021(Xem: 4606)
Già San Đường Trí Quán Đại Tông Sư, vị đại học giả, vị Luật sư, Thiền sư nổi tiếng, vị Tổng vụ trưởng xuất sắc trong việc quản lý các vấn đề hành chính Phật giáo. Ngài được ca tụng lảu thông Tam tạng giáo điển, lý sự viên dung. Già San Đường Trí Quán Đại Tông Sư (가산당 지관대종사, 伽山堂 智冠大宗師, 1932-2012) tục danh Lý Hải Bằng (이해붕, 李海鵬), theo tộc phả tên Chung Bằng (종붕, 鍾鵬), Tổng vụ Viện trưởng Thiền phái Tào Khê đời thứ 32, Phật giáo Hàn Quốc, hiệu Già Sơn đường Trí Quán Đại tông sư (가산당지관대종사, 伽山堂智冠大宗師), sinh ngày 14/6/1932 (05/11/Nhâm Thân), nguyên quán làng Cheonghae-myeon, huyện Gyeongju, tỉnh Gyeongsangbuk-do, Đại Hàn. Phụ thân của Ngài là cụ ông Lý Khuê Bạch (이규백, 李圭白) và Hiền mẫu của Ngài là cụ bà Kim Tiên Y (김선이, 金先伊). Gia đình truyền thống Phật giáo lâu đời, kính tin Tam bảo.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]