Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Duy Tuệ Thị Nghiệp

14/06/201212:06(Xem: 16929)
Duy Tuệ Thị Nghiệp

TUỆ SỸ ĐẠO SƯ

Thơ và Phương Trời Mộng - Tập 2


Tác giả: Nguyên Siêu
Ban Tu Thư Phật Học Hải Đức Nha Trang
In lần thứ nhất
California - Hoa Kỳ 2006

flowerba

Duy Tuệ Thị Nghiệp

Tuệ Sỹ

Lý tưởng giáo dục và những phương pháp thực hiện lý tưởngnày, hiển nhiên Phật giáo đã có một lịch sử rất dài. Phạm vi hoạt động của nókhông chỉ giới hạn chung quanh những tàng kinh các, hay những pháp đường củacác Tăng viện; mà còn ở cả nơi triều đình, công sảnh, và bất cứ nơi nào mà mọingười có thể tụ tập ít nhất là hai người, trong tất cả sinh hoạt nhân gian.Thêm vào đó là những biến chuyển qua các thời đại, sự dị biệt của các dântộc... Tất cả được tập đại thành trong một bộ sử khá lớn của Phật giáo về vấnđề giáo dục. Dù vậy, ngày nay, vấn đề đó vẫn còn là một thể tài quá mới mẻ đốivới giới Phật học. Sự va chạm giữa nền văn minh Đông và Tây, so với sự tiếp xúcgiữa nền văn minh Hoa Ấn diễn ra từ cuối thế kỷ I Tây lịch kéo dài cho đến thếkỷ XI hay XII, đặc trưng qua hai triều đại Đường và Tống, với nỗ lực của trênmười thế kỷ đó, sự va chạm mà chúng ta chứng kiến ngày nay quả là không thấmvào đâu. Khó khăn chính yếu của chúng ta hiện tại không phải là vấn đề phươngpháp như đa số lầm tưởng. Những cống hiến của các nhà Phật học trong lãnh vựcngôn ngữ Âu châu đã chứng minh điều đó. Thể điệu trước tác của những hệ thốngtư tưởng và văn học của Phật giáo giờ không còn là một "mê hồn trận"khó vào nữa. Xưa kia, người Trung hoa đã làm thế nào mà nắm ngay được"mạch ngầm" của Phật giáo để thực hiện nó theo bản sắc dân tộc vàtruyền thống văn học tư tưởng của mình, đấy là kinh nghiệm rất phong phú. Mặcdù giữa hai quốc gia này bị ngăn chận bởi dải sa mạc mênh mông giữa miền Cao Ávà ngọn Thông lĩnh lạnh lùng; với biên giới thiên nhiên quá hiểm nghèo này, khảnăng bình thường của con người khó vượt qua nổi bằng chính hai chân không củanó. Thế mà cả hai dân tộc này đã có lúc "thông cảm" nhau được. Đôngvà Tây của chúng ta không có những biên giới khốn nạn như vậy, thì sự"thông cảm" tại sao lại khó khăn? Điều đó có nghĩa rằng những khókhăn mà Phật giáo gặp phải, riêng trong lãnh vực giáo dục, không phải là"kỹ thuật khoa học" hay "truyền thống tâm linh" giữa Đôngphương và Tây phương. Nhưng nếu gạt những vấn đề này ra ngoài, e rằng chúng tadễ có khuynh hướng dẫm lên "lãnh vực siêu hình", như một giai thoạicủa Trang Tử: "Anh không phải là cá sao biết cá vui?"

Chúng ta biết rằng trong những cuộc thảo luận của các Đại họcở Á châu, người ta thường nhắc đến "kỹ thuật khoa học của Tây phương"và "Truyền thống tâm linh của Đông phương". Rồi lấy đó làm sứ mệnh màcác Đại học Á châu phải nỗ lực thể hiện cho "tốt đẹp mọi đườnghướng." Xét về nội dung cũng như ý hướng, điểm vừa nêu chỉ là một khẩuhiệu, không hơn không kém. Chúng tôi sẽ không cố ý khảo nghiệm về hiệu lực củakhẩu hiệu này.

Hiển nhiên, sự thực phải chấp nhận rằng kỹ thuật khoa học làsản phẩm độc đáo và gần như là độc nhất của Tây phương. Riêng về các Triết giaTây phương trong thế kỷ này, họ thấu hiểu tính thể kỹ thuật khoa học một cáchvô cùng tế nhị. Giả sử chúng ta đã hiểu rõ cặn kẽ một trong những mệnh đề áchyếu của Hiện sinh luận, theo đó, hiện hữu có trước yếu tính. Rồi từ đó mà suydiễn sẽ thấy rằng bản tính sâu xa của một hiện tượng cá biệt được thể hiện ngaytrong phương tiện hay phong cách hiện hữu như cá biệt của nó. Đấy chỉ mới lànhận định đại khái. Nếu lấy thí dụ điển hình từ một vài triết gia, về nhữngcống hiến của họ cho thể tài ngôn ngữ trong triết học Tây phương hiện đại chúngta sẽ thấy ra đâu là tính thể của "kỹ thuật khoa học" và đâu là bảnchất của "truyền thống tâm linh".

Wittgenstein là một điển hình độc đáo; ý tưởng chỉ đạo đượcghi trong Tractatus: ngôn ngữ là khuôn hình của thế giới. Do đó, giới hạn củangôn ngữ chúng ta chính là giới hạn của thế giới chúng ta. Ý tưởng này muốn nóirằng chính tất cả những phương pháp vận dụng ngôn ngữ của chúng ta hình thànhnên một vũ trụ quan hay nhân sinh quan nào đó. Mọi "không tưởng" màngười ta có thể khám phá ra ở một triết gia, không phải do bản chất không tưởngtrong tư tưởng của ông, nhưng chính ngôn ngữ và phương pháp vận dụng ngôn ngữcủa ông đã khép kín ông vào trong tháp ngà của một thứ tư duy không tưởng nàođó. Ngôn ngữ không còn là một thực thể ngoại tại và phổ biến mà ai cũng có thểvận dụng tùy nghi để nói lên những gì ẩn kín trong lòng. Thường nhật, với câuhỏi "cái này là gì?", chúng ta có cảm tưởng rằng nếu thỏa mãn đượcchữ "gì?" là đã có thể giải quyết được vấn đề, theo tiêu thức tổngquát của ngôn ngữ (x,y) hay E (x,y). Thực ra, vấn đề chỉ được thỏa mãn bằngcách vận dụng hợp qui đối với các khả biến, lại là tùy thuộc những liên hệ giữađịnh lượng phổ biến và định lượng cá biệt. Nhưng một khi những định lượng nàyđược cứu xét kỳ cùng, chúng bộc lộ ngay tính cách "giả tưởng" và cuốicùng tiêu thức tổng quát của ngôn ngữ thảy là mệnh đề giả hiệu. Phân tích nhưvậy tạo nên một cảm giác thất vọng đối với mọi thứ qui tắc ngôn ngữ mệnh danhlà "nghiêm túc" hay "chính xác"; và người ta chỉ còn mộttin tưởng độc nhất là ngôn ngữ của thi ca. Dù nó không nghiêm túc và chính xácnhư trong "kỹ thuật khoa học", nhưng khả năng thông diễn thực tại củanó quả là vô cùng phong phú. Bởi vậy các nhà thực nghiệm luận lý trong triếthọc Tây phương hiện đại chỉ chịu nghe theo ngôn ngữ của âm nhạc hơn bất cứ mệnhđề triết học hay khoa học nào.

Ở đây chúng ta cũng không quên những cống hiến củaMichel-Foucault đối với nền triết lý ngôn ngữ hiện đại. Trật tự của ngôn ngữ làtrật tự của thế giới. Đấy là điểm chính yếu. Ông mệnh danh sự cống hiến củamình là Khảo cổ học. Bởi vì, người ta có thể tìm thấy mọi dấu vết của lịch sửvăn minh nhân loại qua các thời đại bằng vào lịch sử phát triển của văn pháp.Dị biệt tính của các nền tư tưởng có thể theo đây mà khám phá. Lấy thí dụ, mộttrong những khó khăn của những giáo sư triết tại Việt Nam hiện nay đã đối đầukhi phải trình bày về quan niệm L' être hay Being hay Sein. Người học triết vìvậy rất bối rối, khi các dụng ngữ Việt không chứa thêm các chữ này. Những tồnthể, hữu thể, tính thể, rồi thể tính, vân vân. Vì lẽ rằng cơ cấu văn pháp Việtngữ không hề có những opus này. Ngôn ngữ Âu châu đã từng bất lực về L' être etle temps, thì bằng vào cơ cấu văn pháp của Việt ngữ không thôi, chúng ta khônglàm sao hiểu ra giới hạn của sự bất lực này. Khi một triết gia nói: "Câuhỏi về tính thể là một câu hỏi phổ biến tổng quát nhất, câu hỏi rỗng tuếch nhấttrong những câu hỏi, nhưng đồng thời câu hỏi ấy lại cũng có thể được cụ thể hóachung đúc lại rõ ràng nhất trong bất cứ hiện tính thể cá biệt nào". Đây lànhững lời rất xa lạ đối với cơ cấu văn pháp Việt ngữ. "Tính thể là một câuhỏi phổ biến tổng quát nhất,…", thực sự, l' être hay être mới là "phổbiến tổng quát" trong tiếng Pháp, còn tính thể thì không như vậy. Khổ tâmnhất cho người ta là không thể thay là cho tính thể. Như vậy, khi một ngườinói: thảm họa của dân tộc Việt Nam ngày nay được ghi đậm máu và nước mắt trên"câu hỏi về tính thể", thì đã bộc lộ một cách chua cay về định mệnhkhốn nạn của dân tộc này vốn bị ám ảnh bởi khẩu hiệu "phát triển kỹ thuậtkhoa học Tây phương và duy trì truyền thống tâm linh Đông phương". Sự pháttriển như vậy chỉ có nghĩa là biến tính và tự hủy chứ không phải duy trì gìhết.

Thế nhưng, như đã nói, không phải vì cố giải quyết êm đẹpkhẩu hiệu ấy mà những sinh hoạt của tư tưởng Phật học trong lãnh vực giáo dụcđã đương đầu với vô số khó khăn. Trong quá khứ, Phật giáo đã từng từ bỏ sắcthái của chế độ tăng lữ vốn phải ẩn cư trong các núi rừng sâu thẳm, để đi đếnnơi nào có máu và nước mắt đổ xuống vì nhân sinh; và cũng đã từ bỏ màu sắc Ấnđộ của nó để đi đến nơi nào có sự sống và có khát vọng giác ngộ về lẽ sống. Dùvậy, đức Thích Ca vẫn là người bằng xương bằng thịt, chưa hề là một thần linhcao cả. Do đó, phát triển hay duy trì một sản phẩm văn hóa nào đó không phải làvấn đề trọng đại để có thể đánh lừa như một khẩu hiệu hay một nhãn hiệu. Nó làlửa; chỉ có thể cắm bảng hiệu ở xa chứ không thể cắm ngay giữa lòng. Ngọn lửađó, một khi được khơi dậy, nó làm sáng ngời lên khát vọng nóng bỏng nhất trongcăn để sâu xa của lòng người; để người ta có thể thấy rõ, quả thực, mình muốngì trong cuộc sống này?

Dù sao, không ai lại có thể làm ngơ trước những thành quả màkỹ thuật khoa học Tây phương đang gây ảnh hưởng lớn lao trên mọi lãnh vực củathế giới hiện đại. Nói riêng cớ cấu tổ chức xã hội, ngay tại Việt nam, trongnhững năm qua, Giáo hội Phật Giáo Việt Nam đã gặp những khủng hoảng trầm trọng.Lý do chính yếu, có lẽ người ta phải công nhận rằng đây là vấn đề nan giải giữanhững nguyên tắc tổ chức cơ cấu xã hội và truyền thống tâm linh. Nghĩa là, bấtcứ bằng cách nào, chúng ta vẫn phải bị đè nặng dưới áp lực của khẩu hiệu Pháttriển và Duy trì; giữa kỹ thuật khoa học và truyền thống tâm linh. Truyền thốngnày dĩ nhiên bị biến tính tận căn để khi được lồng vào những nguyên tắc tổ chứcbắt nguồn từ vũ trụ quan và nhân sinh quan của Tây phương; hay rõ hơn, của khoahọc và tính cách thực dụng của khoa học. Một số học giả Phật giáo Tây phươngkhi nghiên cứu về đường lối tổ chức của giáo đoàn tăng lữ của phật giáo đã tỏ ýlàm lạ: bằng một nguyên tắc nào đó mà giáo đoàn tăng lữ đã vượt qua được mọikhủng hoảng đáng lý phải phân hóa; vì sự khủng hoảng đã thực sự diễn ra và tạothành trên hai mươi bộ phái Phật giáo. Rồi đến khi Đại thừa Phật giáo ra đời,sự xung đột về tư tưởng lại càng rõ rệt. Nhưng, người ta vẫn nhận thấy mộtđiều: sinh hoạt của giáo đoàn tăng lữ không bị phân chia; giáo hội vẫn theo mộthình thức duy nhất mệnh danh là nguyên thủy. Có tư tưởng Đại thừa, nhưng chưahề có giáo hội Đại thừa; Tăng lữ vẫn phải sinh hoạt theo Thanh tịnh giới bổn.Hiển nhiên, trong đó, một vài tiểu tiết được sửa đổi; vì hoàn cảnh địa lý haythời đại. Chẳng hạn, tại những vùng khí hậu lạnh như ở Trung hoa, vấn đề khấtthực khó mà thi hành đúng theo nguyên thủy; hay không thể triệt để cấm tàng trữthực phẩm cách đêm. Ngày nay, tổ chức của Giáo hội tại Việt nam không còn lấyThanh tịnh giới bổn làm nguyên tắc chỉ đạo, mà căn cứ theo thể thức phân quyềncủa Tây phương. Thể thức này đang biến tính "truyền thống tâm linh"trong một vài phương diện. Thí dụ, bốn ba la di được coi là sinh mệnh của cơcấu tăng lữ nay dần dần mất tính cách hệ trọng của chúng. Trước đây, một sốtăng sĩ, do ảnh hưởng của tâm phân học, đã giải thích các ba la di theo đườnglối hơi lạ lùng. Tình trạng này đang trở thành sự thật, và người ta chỉ còncách "hợp thức hóa" những sự kiện "đã rồi". Trong đây, nộitình còn nhiều phức tạp vượt ngoài khả năng hiện hữu nên chúng tôi không thể đisâu vào các chi tiết.

Trên tất cả mọi vấn đề, chính thành quả của kỹ thuật khoa họcTây phương, với tính cách thực dụng của nó đối với những nhu cầu thiết yếu củađời sống, đã là một ám ảnh đè nặng lên tâm trí những người cố duy trì "Hữuhiệu" truyền thống tâm linh. Rồi ra, người ta cũng đòi hỏi phương phápthiền định chẳng hạn, phải làm sao để có hiệu lực y như bất cứ thành quả nào màkhoa học có thể mang đến. Như vậy, nếu khoa học có thể làm giảm thiểu hay diệttrừ những tai họa nào đó của đời sống thường nhật, người ta cũng muốn đòi hỏithiền định phải có hiệu năng đó, ít nhất là tương đương, nếu không nói là hoànhảo hơn. Xưa kia, một người đi học thiền, thiền sư đòi hỏi y phải loại bỏ nhữngmong cầu "thực dụng" nơi thiền. Nếu đời sống thường nhật nhờ tậpthiền mà tránh được một vài bất trắc, như bịnh hoạn, thì đấy phải coi là kếtquả "đương nhiên", có tính cách phụ thuộc, không nên lấy đó làm mụcđích. Người ta không được phép học thiền để có thể sống qua ngày tháng, sốngtrọn cuộc đời không tai họa. Nói như thế bỗng nhiên bị coi là không tưởng. Mộtgiai thoại khá lý thú, kể rằng, khi Phật sửa soạn qua sông bằng đò, ngài gặpmột ẩn sĩ; vị này thách thức ngài, với hiệu nghiệm của công trình tập thiền,nếu có, ngài thử vượt qua con sông mà không cần đò; có thế mới chứng tỏ được sựtiến bộ tâm linh. Phật nói, ngài chỉ cần vài xu nhỏ, rất dễ kiếm, là có thể quasông được, cần gì phải bỏ ra một quãng đời tập thiền. Thực sự, khi muốn khảonghiệm đời sống tâm linh bằng hiệu năng thực tế, quả tình người ta đã tạo ramột không tưởng trên tất cả mọi không tưởng; thế mà vẫn coi đó là điều lý thú!

Khó khăn của chúng ta chính là đây. Ngày nay hay ngày xưa,người ta vẫn đòi hỏi rằng chân lý phải được khảo nghiệm bằng hiệu năng thực tế.Do đó, một nền giáo dục hoàn hảo phải chứng tỏ những hiệu năng nó có thể manglại để thỏa mãn nhu cầu của người học. Vậy rồi, thay vì mở ra những con đườngđi vào thế giới tâm linh sống động, người ta đã quay ngược lại để trở về vớinhững nhu cầu hạ cấp của người học. Họ gieo cho người học những sợ hãi bất antrước một tương lai nào đó. Những "sinh tồn", "diệt vong"v.v., đấy là những mệnh đề giả hiệu, chúng có tác dụng làm tăng mối sợ hãi.Nhưng chúng cũng có thế lực khích động rất lớn, và đề ra những đường lối phảitheo. Y như một người tranh cử, hăm dọa cử tri bằng những viễn tượng đen tốicủa ngày mai, nếu mình không được chọn lựa. Cũng vậy, đối với chúng ta, mộtđường lối giáo dục được lựa chọn là có phát triển và có duy trì; vừa tiến bộ vàvừa không mất gốc. Trong trường hợp cực đoan, nếu bắt buộc phải chọn một tronghai, hoặc phát triển, hoặc duy trì, xưa nay Phật giáo đã chọn lối đi thứ nhất.Gốc của con người là ở tại lòng người, thì dù có phát triển đến đâu bằng cả tấmlòng của mình, chẳng có gì gọi là mất cả. Những thành ngữ quen thuộc:"phóng hạ đồ đao, lập địa thành Phật" hay "khổ hải thao thao,hồi đầu thị ngạn."

Trên đây chỉ đề cập đến một vài lý tưởng, gọi là ngoài lề.Bởi vì, trọng tâm của nó, với bốn chữ Duy Tuệ Thị Nghiệp, đã bị biến tính đểrồi Tuệ ở đây có nghĩa là kiến thức học vấn, gồm những "kỹ thuật","phương pháp", dành cho khẩu hiệu phát triển kỹ thuật, khoa học vàduy trì truyền thống tâm linh.

Tuệ Sỹ

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
19/01/2022(Xem: 7488)
Dân tộc Việt Nam học và hành theo giáo lý Phật thuyết trên dưới hai nghìn năm trước khi Pháp sư Huyền Trang quy Phật cũng trên sáu thế kỷ, tuy vậy cho đến nay chúng đệ tử Phật, xuất gia cũng như tại gia, biết đến công hạnh của Ngài rất ít, và cũng biết rất ít di sản Kinh Luận của Ngài cho Phật tử Việt nam học và hiểu giáo pháp của Đức Thế Tôn một cách chân chính để hành trì chân chính. Bản dịch Đại Đường Tây vực ký của Hòa Thượng Như Điển với sự đóng góp của Cư sĩ Nguyễn Minh Tiến bổ túc cho sự thiếu sót này. Từ những hiểu biết để thán phục, kính ngưỡng một Con Người vĩ đại, hãn hữu, trong lịch sử văn minh tiến bộ của nhân loại, một vị Cao Tăng thạc đức, với nghị lực phi thường, tín tâm bất hoại nơi giáo lý giải thoát, một thân đơn độc quyết vượt qua sa mạc nóng cháy mênh mông để tìm đến tận nguồn suối Thánh ngôn rồi thỉnh về cho dân tộc mình cùng thừa hưởng nguồn pháp lạc. Không chỉ cho dân tộc mình mà cho tất cả những ai mong cầu giải thoát chân chính.
04/01/2022(Xem: 8399)
Không hiểu sao mỗi khi nhớ về những sự kiện của năm 1963 lòng con bổng chùng lại, bồi hồi xúc động về quá khứ những năm đen tối xảy đến gia đình con và một niềm cảm xúc khó tả dâng lên...nhất là với giọng đọc của Thầy khi trình bày sơ lược tiểu sử Đức Ngài HT Thích Trí Quang ( một sưu tầm tài liệu tuyệt vời của Giảng Sư dựa trên “ Trí Quang tự truyện “ đã được đọc tại chùa Pháp Bảo ngày 12/11/2019 nhân buổi lễ tưởng niệm sự ra đi của bậc đại danh tăng HT Thích Trí Quang và khi online cho đến nay đã có hơn 45000 lượt xem). Và trước khi trình pháp lại những gì đã đươc nghe và đi sâu vào chi tiết bài giới thiệu Bộ Pháp Ảnh Lục cùng lời cáo bạch của chính Đức Ngài HT Thích Trí Quang về bộ sách này, kính trich đoạn vài dòng trong tiểu sử sơ lược của HT Thích Trí Quang do Thầy soạn thảo mà con tâm đắc nhất về;
04/01/2022(Xem: 7169)
Trên đất nước ta, rừng núi nào cũng có cọp, nhưng không phải vô cớ mà đâu đâu cũng truyền tụng CỌP KHÁNH HÒA, MA BÌNH THUẬN. Tỉnh Bình Thuận có nhiều ma hay không thì không rõ, nhưng tại tỉnh Khánh Hòa, xưa kia cọp rất nhiều. Điều đó, người xưa, nay đều có ghi chép lại. Trong sách Hoàng Việt Nhất Thống Dư Địa Chí (1) của Thượng Thư Bộ Binh Lê Quang Định soạn xong vào năm 1806 và dâng lên vua Gia Long (1802-1820), tổng cộng 10 quyển chép tay, trong đó quyển II, III và IV có tên là Phần Dịch Lộ, chép phần đường trạm, đường chính từ Kinh đô Huế đến các dinh trấn, gồm cả đường bộ lẫn đường thủy. Đoạn đường ghi chép về ĐƯỜNG TRẠM DINH BÌNH HÒA (2) phải qua 11 trạm dịch với đoạn đường bộ đo được 71.506 tầm (gần 132 km)
04/01/2022(Xem: 6080)
Ngoài tên “thường gọi” là Cọp, là Hổ, tiếng Hán Việt là Dần, cọp còn có tên là Khái, là Kễnh, Ba Cụt (cọp ba chân), Ba Ngoe (cọp ba móng), Ông Chằng hay Ông Kẹ, Ông Dài, Ông Thầy (cọp thành tinh). Dựa vào tiếng gầm của cọp, cọp còn có tên gọi là Hầm, là Hùm, dựa vào sắc màu của da là Gấm, là Mun ... Ở Nam Bộ cò gọi cọp là Ông Cả, vì sợ cọp quấy phá, lập miếu thờ, tôn cọp lên hàng Hương Cả là chức cao nhất trong Ban Hội Tề của làng xã Nam Bộ thời xưa. Cọp cũng được con người gọi lệch đi là Ông Ba Mươi. Con số ba mươi này có nhiều cách giải thích: - Cọp sống trung bình trong khoảng ba mươi năm. - Cọp đi ba mươi bước là quên hết mọi thù oán. - Xưa, triều đình đặt giải, ai giết được cọp thì được thưởng ba mươi đồng, một món tiền thưởng khá lớn hồi đó. - Tuy nhiên, cũng có thời, ai bắt, giết cọp phải bị phạt ba mươi roi, vì cho rằng cọp là tướng nhà Trời, sao dám xúc phạm (?). Ngày nay, cọp là loài vật quý hiếm, có trong sách Đỏ, ai giết, bắt loài thú này không những bị phạt tiền mà còn ở
30/12/2021(Xem: 6981)
Tối ngày 11/02 âm lịch (03/03/2012), vào lúc 10 giờ tối, lúc đó tôi niệm Phật ở dưới hai cái thất mà phía trên là phòng của Sư Ông. Khi khóa lễ vừa xong, bỗng nghe (thấy) tiếng của đầu gậy dọng xuống nền phát ra từ phòng của Sư Ông. Lúc đó tôi vội vàng chạy lên, vừa thấy tôi, Ông liền bảo: “Lấy cái đồng hồ để lên đầu giường cho Sư Ông và lấy cái bảng có bài Kệ Niệm Phật xuống” (trong phòng Sư Ông có treo cái bảng bài Kệ Niệm Phật). Khi lấy xuống Sư Ông liền chỉ vào hai câu: Niệm lực được tương tục, đúng nghĩa chấp trì danh, rồi Sư Ông liền chỉ vào mình mà ra hiệu, ý Sư Ông nói đã được đến đây, sau khi ngồi hồi lâu Sư Ông lên giường nghỉ tiếp.
25/12/2021(Xem: 5284)
Cảo San đường Tuệ Nguyên Đại Tông sư (고산당 혜원대종사, 杲山堂 慧元大宗師) sinh ngày 8 tháng 12 năm 1933 tại huyện Ulju, Ulsan, một thành phố nằm ở phía đông nam Hàn Quốc, giáp với biển Nhật Bản. Ngài vốn sinh trưởng trong tộc phả danh gia vọng tộc, phụ thân Họ Ngô (해주오씨, 海州吳氏), Haeju, Bắc Triều Tiên và tộc phả của mẫu thân họ Park (밀양박씨, 密陽朴氏), Miryang, Gyeongsangnam-do, Hàn Quốc. Năm lên 7 tuổi, Ngài được sự giáo huấn của người cha kính yêu tuyệt vời, cụ đã dạy các bộ sách Luận ngữ, Mạnh Tử, Thích Độ, Đại Học, Tứ Thư và học trường tiểu học phổ thông. Vào tháng 3 năm Ất Dậu (1945), khi được 13 tuổi, Bồ đề tâm khai phát để làm tiền đề cho Bát Nhã đơm bông, Ngài đảnh lễ Đại Thiền sư Đông San Tuệ Nhật (동산혜일대선사, 東山慧日大禪師, 1890-1965) cầu xin xuất gia tu học Phật pháp. Thật là “Đàm hoa nhất hiện” khi những sợi tóc não phiền rơi rụng theo từng nhát kéo đong đưa. Tháng 3 năm 1948, Ngài được Hòa thượng Bản sư truyền thụ giới Sa di tại Tổ đình Phạm Ngư Tự (범어사, 梵魚寺), Geumjeong-gu, Busan, Hàn Qu
23/12/2021(Xem: 3964)
Chánh Điện của một ngôi Chùa tại xứ Đức, cách đây hơn 40 năm về trước; nơi có ghi hai câu đối: "Viên thành đạo nghiệp Tây Âu quốc. Giác ngộ chúng sanh đạo lý truyền", bây giờ lại được trang hoàng thật trang nghiêm và rực rỡ với các loại hoa. Đặc biệt nhất vẫn là những chậu cây Trạng Nguyên nhỏ to đủ kiểu, nổi bật nhất vẫn là những chiếc lá đỏ phía trên phủ lên những chiếc lá xanh bên dưới. Ai đã có ý tưởng mang những cây Nhất Phẩm Hồng, có nguồn gốc ở miền Nam Mexico và Trung Mỹ vào đây? Và theo phong thủy, loại cây này mang đến sự thành công, đỗ đạt và may mắn.
10/12/2021(Xem: 8488)
Bản dịch này cũng đã đăng tải trong các số báo đặc san Pháp Bảo, từ số 2, tháng 5 năm 1982 và còn tiếp tục đăng tải cho đến nay. Loạt bài đăng trong báo sẽ được chấm dứt trong vài kỳ báo nữa, vì các phần sau tuy cần thiết đối với người muốn nghiên cứu, nhưng lại trở nên khô khan với người ít quan tâm tới sử liệu Phật Giáo. Đó là lý do quý vị chỉ tìm thấy bản dịch được đầy đủ chỉ có trong sách này. Trong khi dịch tác phẩm, cũng như trong khoảng thời gian còn tòng học tại Nhật Bản, chúng tôi tự nghĩ: không hiểu sao Phật giáo đã du nhập vảo Việt Nam từ thế kỷ thứ 2, thứ 3 mà mãi cho tới nay vẫn chưa có được những cuốn sách ghi đầy đủ các chi tiết như bộ “Các tông phái Phật Giáo Nhật Bản” mà quý vị đang có trong tay. Điều mong mỏi của chúng tôi là Phật Giáo Việt Nam trong tương lai cố sao tránh bớt vấp phải những thiếu sót tư liệu như trong quá khứ dài hơn 1500 năm lịch sử truyền thừa! Để có thể thực hiện được điều này, cần đòi hỏi giới Tăng Già phải đi tiên phong trong việc trước t
09/12/2021(Xem: 22884)
Cách đây vài ngày đọc trên một tờ báo tại Sydney , khi nói về chủng thể Omicron vừa phát tán và lây lan do xuất phát từ các nước Nam Phi , tôi chợt mỉm cười khi đọc được câu này " Chúng ta đã học từ nạn đại dịch một điều rằng : Đừng nên hy vọng một điều gì , vì chắc chắn điều mình hy vọng ấy sẽ chỉ là THẤT VỌNG " If there’s one thing COVID has taught us , it is to expect nothing, except disappointment . What it comes to that COVID really delivers
08/12/2021(Xem: 4606)
Già San Đường Trí Quán Đại Tông Sư, vị đại học giả, vị Luật sư, Thiền sư nổi tiếng, vị Tổng vụ trưởng xuất sắc trong việc quản lý các vấn đề hành chính Phật giáo. Ngài được ca tụng lảu thông Tam tạng giáo điển, lý sự viên dung. Già San Đường Trí Quán Đại Tông Sư (가산당 지관대종사, 伽山堂 智冠大宗師, 1932-2012) tục danh Lý Hải Bằng (이해붕, 李海鵬), theo tộc phả tên Chung Bằng (종붕, 鍾鵬), Tổng vụ Viện trưởng Thiền phái Tào Khê đời thứ 32, Phật giáo Hàn Quốc, hiệu Già Sơn đường Trí Quán Đại tông sư (가산당지관대종사, 伽山堂智冠大宗師), sinh ngày 14/6/1932 (05/11/Nhâm Thân), nguyên quán làng Cheonghae-myeon, huyện Gyeongju, tỉnh Gyeongsangbuk-do, Đại Hàn. Phụ thân của Ngài là cụ ông Lý Khuê Bạch (이규백, 李圭白) và Hiền mẫu của Ngài là cụ bà Kim Tiên Y (김선이, 金先伊). Gia đình truyền thống Phật giáo lâu đời, kính tin Tam bảo.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]