Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

[251 - 260]

13/02/201217:42(Xem: 8327)
[251 - 260]

DẠO BƯỚC VƯỜN THIỀN

(333 Câu Chuyện Thiền)

Đỗ Đình Đồng góp nhặt

 

251. LÀ NGƯỜI HAY LÀ PHẬT?

Hòa thượng Từ Phong Hải Quýnh (1728-1811) là truyền nhân đời thứ ba phái Liên Tông thuộc dòng Thiền Lâm Tế Việt Nam.

Năm 16 tuổi, sư đến chùa Liên Tông đảnh lễ Thiền sư Tính Dược xin thế độ. Tính Dược bảo:

- Ngươi thân như mọi rợ đâu kham lãnh đại pháp?

Sư đáp:

- Thân tuy mọi rợ mà tâm đồng Phật Tổ.

Tính Dược bảo:

- Ta hỏi một câu ngươi đáp được thì độ cho, bằng không đáp được, cho một tiền đi tìm thiện tri thức khác.

Sư đáp:

- Thỉnh hòa thượng hỏi.

Tính Dược hỏi:

-Ngươi là người hay là Phật? Là thật hay là giả?

Sư đáp:

- Người Phật vốn không, huống hồ là có thật giả.

Tính Dược khen:

- Hay lắm! Ngươi liễu đạo vậy.

(Thiền Sư Việt Nam)

252. ĐẦY MẮT NÚI XANH

Khi Thiền sư Pháp Nhãn ra mặt với đời, hội chúng có năm trăm người. Lúc ấy Phật Pháp đại hưng thịnh, Quốc sư Đức Thiều đã ở với Sơ Sơn một thời gian lâu, tự cho là đã đạt yếu chỉ của Sơ Sơn. Vì vậy Đức Thiều mới thu thập tất cả bút tích và di ảnh của Sơ Sơn, dẫn tăng chúng đi hành cước. Đến chỗ của Pháp Nhãn, bản thân Đức Thiều không vào thất mà chỉ bảo đệ tử theo những người khác vào thất của Pháp Nhãn.

Một hôm, Pháp Nhãn lên tòa, có một ông tăng hỏi:

- Thế nào là một giọt nước Tào khê?

Pháp Nhãn đáp:

- Là một giọt nước Tào khê.

Ông tăng mờ mịt, thối lui. Lúc đó Đức Thiều có mặt trong hội chúng, nghe được, bỗng nhiên đại ngộ.

Sau này, sư xuất hiện với tư cách là một trong những người thừa kế Pháp Nhãn. Đức Thiều trình bài kệ sau đây:

Thông huyền đỉnh núi,

Chẳng phải nhân gian;

Ngoài tâm không vật,

Đầy mắt núi xanh.

Pháp Nhãn ấn chứng cho và nói: “Chỉ một bài kệ này cũng đủ thừa kế tông môn ta. Ngày sau, vua chúa sẽ tôn vinh ông. Ta chẳng bằng ông.”

(Bích Nham Lục)

253. TẤM LÒNG TRONG SẠCH

Một nhóm người ăn mày khốn khổ vì bịnh cùi đến hội chúng của Bàn Khuê, một Thiền sư có tấm lòng đại độ. Bàn Khuê chấp nhận họ vào hội chúng, và khi điểm hóa họ, sư còn tự tay tắm rửa và cạo đầu cho họ nữa.

Khi sự việc diễn ra, có một ông lịch sự có mặt ở đó, vị đại diện của một người có thế lực tin tưởng Thiền sư Bàn Khuê, đã lập một ngôi chùa trong tỉnh để Bàn Khuê huấn luyện đệ tử và nói pháp cho mọi người nghe.

Tức giận vì thấy Thiền sư cạo đầu cho bọn đê tiện, người lịch sự kia vội vàng đi múc một thau nước cho Bàn Khuê rửa tay. Nhưng sư từ chối, nói: “Sự kinh tởm của ông còn dơ bẩn hơn những vết thương lở loét của họ.”

(Giai Thoại Thiền)

254. THIỀN VÀ THUẬT TRỊ NƯỚC

Một lãnh chúa thường tham kiến Thiền sư Thiên Quế Truyền Tông (1648-1735), hỏi về yếu chỉ Phật pháp. Khi sư bị bệnh lần cuối, vị lãnh chúa phái một sứ giả đến thăm hỏi. Thiên Quế gửi sứ giả một lá thư ngắn mang về cho lãnh chúa:

‘Tề gia và trị quốc cũng là tu đạo. Hãy thận trọng áp dụng những chính sách nhân từ, nhờ đó sẽ có sự tin cậy và hòa hợp giữa người cai trị và kẻ bị trị. Đây là khuyên cuối cùng của tôi.”

(Giai Thoại Thiền)

255. GIẤY ĐI CẦU

Trong đám tăng chúng của Thiền sư Bạch Ẩn có một cuồng tăng, cho rằng mình đã ngộ và đồng nhất với Phật. Y xé kinh làm giấy đi cầu. Các tăng nhân khác đã cảnh cáo ông ta về chuyện này, nhưng ông tăng điên này không quan tâm, kiêu căng vặn lại: “Dùng kinh Phật lau đít Phật có gì là sai?”

Lúc ấy có người thuật lại chuyện này với Bạch Ẩn, sư hỏi ông ta: “Người ta nói ông dùng kinh Phật làm giấy đi cầu, có phải không?”

Ông tăng điên đáp: “Phải. Tôi chính là Phật. Dùng kinh Phật lau đít Phật có gì là sai ?”

Bạch Ẩn nói: “Ông sai rồi. Vì chính là đít Phật, sao ông lại dùng giấy cũ có chữ viết trên đó? Ông nên dùng giấy trắng sạch lau mới phải chứ.”

Ông tăng điên xấu hổ và xin lỗi.

(Giai Thoại Thiền)

256. TỈNH NGỘ

Thiền sư Setsugen nói với đệ tử là Jijo, “Nếu ông chuyên tâm tọa thiền bảy ngày bảy đêm không gián đoạn mà không ngộ, thì cứ cắt đầu tôi lấy sọ làm đồ chứa phân.”

Sau đó không bao lâu, Jijo bị bệnh kiết lỵ, liền lấy một cái thùng nhỏ mang đến một chỗ biệt lập chẳng ai đến. Jijo ngồi trên thùng chú tâm thiền định.

Jijo ngồi trên thùng bảy ngày liền, đến một đêm bỗng nhiên cảm thấy cả trời đất giống như cảnh tuyết dưới ánh trăng sáng ngời và toàn thể vũ trụ trở nên quá nhỏ hẹp, không thể chứa được mình.

Jijo nhập vào trạng thái này trong thời gian khá lâu cho đến khi nghe một âm thanh làm giật mình thức tỉnh. Toàn thân Jijo toát mồ hôi, cơn bệnh cũng biến mất. Jijo làm một bài kệ kỷ niệm:

Cái gì đây mà lung linh, sáng tỏ?

Mất tiêu liền trong nháy mắt lầm qua.

Cạnh cầu tiêu, chiếc mái dầm ngời sáng;

Rốt cuộc rồi, nó vốn là ta.

(Giai Thoại Thiền)

257. GAN RUỘT

Một lãnh chúa còn trẻ và thích võ thuật, học Thiền với Thiền sư Bàn Khuê. Một hôm, ông ta quyết định thử “gan ruột” của sư bằng cách dùng cây thương tập kích thình lình khi sư đang tĩnh tọa.

Thiền sư bình tĩnh làm lệch cú đánh bằng xâu chuỗi. Rồi sư bảo vị lãnh chúa: “Võ thuật của ông còn non nớt, tâm ông đã động trước.”

(Giai Thoại Thiền)

258. CHỚ LO LẮNG

Thiền sư Vô Học Tổ Nguyên là một trong những người sáng lập Thiền ở Nhật Bản. Sinh ở Trung Quốc, sư đã ngộ lần đầu tiên năm mười hai tuổi khi nghe bài kệ sau đây, lúc sư cùng cha đến viếng một ngôi chùa ở miền quê :

Bóng tre quét thềm,

Không động mảy bụi;

Ánh trăng soi nước,

Không lưu vết tích.

Khi đoàn quân Mông Cổ của Thành Cát Tư Hãn, tràn vào phía nam Trung Quốc năm 1275, Vô Học đã chạy tránh ngọn lửa chiến tranh; nhưng đến lúc tỉnh sư ẩn náu bị giày xéo vào năm sau, sư không chạy nữa.

Khi quân Mông Cổ gây giông bão tại tự viện Vô Học ngồi, tất cả tăng nhân khác và những người làm việc cho tự viện đều tìm chỗ trốn y như lũ chuột rúc vào hang.

Bọn lính tiến gần pháp đường chỗ sư ngồi một mình, chúng dí kiếm vào cổ sư. Sư hoàn toàn thản nhiên, bình tĩnh đọc bài kệ sau đây:

Đất trời mênh mông,

Không chỗ cắm dùi.

Vui thay biết được

Người pháp đều không.

Lưỡi kiếm Nguyên Mông

Dài và sáng rực

Chém ngọn gió xuân.

Xúc động vì phong thái không sợ hãi của sư, bọn lính Mông Cổ cất kiếm rút đi.

Vào năm 1280, Vô Học được Bắc Điều Thời Tông [Hojo Tokimune], quan nhiếp chính của chế độ tướng quân, mời đến Nhật Bản. Mùa xuân năm sau, khi Thời Tông đến viếng, Vô Học viết cho quan nhiếp chính một thông điệp ba chữ: “Chớ lo lắng.”

Khi Thời Tông yêu cầu giải thích, sư nói: “Vào lúc xuân hè tiếp nối, miền nam Nhật Bản sẽ có náo động, nhưng sẽ ổn định lại không lâu, vì vậy chớ lo lắng.”

Quả nhiên, vào chính thu, một lực lượng xâm lăng Mông Cổ tấn công phiá bắc nước Nhật, y như lời sư nói. Cũng đúng như sư tiên đoán, bọn xâm lược bị đánh dẹp, và thanh bình sớm trở lại.

(Giai Thoại Thiền)

259. ẨN CƯ

Thiền sư Đại Ngu đã sống một thời gian trong núi sâu ở vùng thôn quê phía bắc Kyoto. Sư viết bài kệ sau đây nói về chỗ sư ở:

Không còn phiền não thị thành,

Không còn tranh nhau phán quyết:

Mùa thu ta ngủ

Lá xuôi theo dòng,

Mùa xuân ta nghe

Chim hót trên cây.

Xuân đến nơi nhân giới

Với lòng tốt bao la;

Mỗi một đóa hoa nở

Là một vị Phật ra.

Tuyết còn vô ý thức

Tan chảy tất cả đi --

Vạn vật giương lông mày

Cùng nhau theo nhịp điệu

Tất cả như là một.

(Giai Thoại Thiền)

260. ĐẸP HƠN HOA

Mùa xuân năm nọ, nhà thơ bài cú lừng danh Ba Tiêu quyết định đi xem hoa ở một nơi nổi tiếng vì có cảnh đẹp. Dọc đường ông nghe nói về một cô gái nông dân nghèo nổi tiếng vì lòng hiếu thảo đối với cha mẹ. Vì hiếu kỳ, Ba Tiêu đi tìm cô gái. Khi gặp cô gái, Ba Tiêu đã cho cô tất cả số tiền ông mang theo để chi tiêu trong chuyến du hành. Rồi Ba Tiêu trở về nhà, không xem hoa gì cả.

Ba Tiêu nói, “Năm nay tôi thấy được một cái đẹp hơn hoa.”

(Giai Thoại Thiền)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/10/2014(Xem: 4646)
Hai kẻ thù đã lâu đời, hai chàng trai trẻ nhất thuộc hai dòng tộc võ sĩ đạo lâm chiến, đang rình rập nhau trong vùng hẻm núi dưới mé sông trong lúc bà con dòng họ đôi bên đang chém giết lẫn nhau trên phía đồng bằng. Mối hận thù nẩy sinh giữa hai chàng sâu đậm đến độ như muốn lộn mửa, và khi trông thấy nhau, mỗi chàng đều nguyện cầu: “Lạy Trời nếu con phải chết, xin cho con gây ra tử thương cho kẻ oán thù trước khi con lìa đời.”
18/10/2014(Xem: 43772)
Uống trà là một nét đẹp văn hóa truyền thống của Á Đông theo phương châm“Bình minh nhất trản trà". Cách đây hàng ngàn năm, con người đã biết đến trà như một loại nước uống mang lại sự sảng khoái, thanh khiết cho tinh thần, là cách để khai tâm mở trí. Người ta xem chén trà là đầu câu chuyện, là gợi mở tâm linh, là giao thoa văn hóa và kết nối lòng người.
10/10/2014(Xem: 4379)
Từ lâu, người ta tin rằng có một cái “bản ngã” thường hằng, bất biến, tồn tại độc lập trong vạn pháp. Trước sự nhầm lẫn tai hại đó, Phật Thích Ca bèn nói thuyết “Vô ngã” để chúng sinh phá chấp. “Vô ngã” không phải không có gì hết mà là không có tự tánh, không có tự thể riêng biệt. Đây là một trong ba Pháp ấn trong hệ thống giáo lý của Phật giáo (hai pháp ấn kia là Khổ và Vô thường). Gọi là Pháp ấn có nghĩa là trong tám mươi bốn ngàn pháp môn của đạo Phật nếu có pháp môn nào không có một trong ba khái niệm Khổ, Vô thường và Vô ngã thì không phải giáo lý đạo Phật.
03/10/2014(Xem: 4325)
Học sinh thường cho rằng, các thầy cô chỉ nhớ tên học sinh giỏi, học sinh đẹp hoặc hoạt động hiệu đoàn... Cho nên mỗi lần nếu tôi gặp lại một em học sinh không có gì xuất sắc ngày xưa mà tôi còn nhớ tên, thì đó là một niềm vui to lớn của em là được thầy cô còn nhớ mặt và nhớ tên của mình. Sau khi cuộc chiến lan tràn trên quê hương thầy trò phân tán, tôi đi cùng nam cực bắc, đi xa nửa trái địa cầu, rải rác khắp nơi, tôi vẫn gặp lại những em học sinh Đồng Khánh cũ. Và nhờ cố gắng nhớ mặt, nhớ tên các em, nên hầu như ở đâu tôi cũng gieo được chút niềm vui cho những người đang phập phồng chờ được gọi đích danh sau một câu mở đầu công thức: „Cô còn nhớ em không?“. Những con người ấy, những học sinh Đồng Khánh tha phương - xa trường, xa thầy bạn cũ đã xưa rất xưa, mà chính bản thân khi soi gương cũng không còn bắt được hình bóng mình ngày ấy..., bất giác còn được gọi tên, còn được nhớ, còn được nhắc nhở đến bao kỷ niệm của một thời. Ôi! Vui biết bao nhiêu, ấm áp ngọt ngào biết bao nhiêu
02/10/2014(Xem: 4227)
Ra đến bến xe trời hãy còn khuya khoắt, trông cảnh nhộn nhịp ì xèo rộn lên từ những gian hàng ăn uống ở một góc gần bên, và tiếng nói cười lăng xăng của hành khách đi lại lẫn với tiếng những người bán hàng rong mời mọc. Nhìn sang quầy bán vé bây giờ không giống như những ngày tháng sau năm 1975, bề mặt thoáng mát rộng rãi trang trí bởi những bảng quảng cáo, những hoa văn sắc màu, những hàng ghế để khách ngồi chờ trông lịch sự. Khách mua vé rất nhanh khỏe hơn xưa, không còn cảnh chen lấn xếp hàng cả buổi trời như trước đây, lại có thêm nhiều loại xe phục vụ trên các tuyến, việc nầy còn tùy thuộc vào túi tiền của hành khách, ai có tiền nhiều thì đi loại xe chất lượng cao, còn ai ít tiền thì đi loại xe bình dân hơn. Nói vậy chứ còn khá hơn trước Đây, bởi ba chiếc xe car cũ kỹ hoặc xe chạy bằng than đá trên những tuyến Miền Đông, Miền Tây vào những năm 1975 - 1990.
24/09/2014(Xem: 6345)
Xưa có một người quyết tâm học đạo, theo một vị thiền sư sống trong một cái cốc nhỏ, sống đạm bạc, quyết chí tu hành. Một này kia, có công việc, vị thiền sư phải đi xa, dặn đệ tử ở lại phải lo chăm chỉ tu hành, luôn luôn giữ lối sống đạm bạc và tâm hồn thanh tịnh. Người đệ tử này chỉ có một chiếc khố che thân. Đêm tới khi ngủ, máng khố trên vách, thường bị chuột chui ra cắn rách, phải xin bá tánh chút vải thừa thay khố nhiều lần.
03/09/2014(Xem: 4612)
Lúc đó tôi được 13 tuổi. Trước đó một năm gia đình tôi đã chuyển từ Bắc Florida đến miền Nam California. Tôi dễ hận thù khi vừa đến tuổi vị thành niên. Tôi rất nóng nảy và hay cãi lại đối với bất cứ chuyện gì dù nhỏ mà ba mẹ đề cập tới, đặc biệt là nếu nó liên quan đến tôi. Cũng giống như nhiều đứa trẻ lứa tuổi thiếu niên, tôi khó chấp nhận bất cứ điều gì đi ngược lại với quan điểm của mình về thế giới chung quanh. Một đứa bé “thông minh không cần dạy bảo”. Tôi phản đối bất cứ biểu lộ nào của tình thương. Thật sự, tôi dễ giận dữ khi đề cập đến cái từ “thương yêu”.
26/08/2014(Xem: 4026)
Ở ven bờ bể Mễ Tây Cơ, có một làng nhỏ chuyên sống nghề đánh cá, một chiếc thuyền con lướt sóng nhẹ vào bờ, đem về vài con cá khá to. Một ông khách Mỹ đứng trên bờ, khen ngợi nghề đánh cá tài giỏi của anh chàng Mễ Tây Cơ và hỏi anh ta mất bao nhiêu thì giờ mới được chừng đó cá. _ “ Không lâu lắm đâu !” anh Mễ Tây Cơ trả lời.
17/08/2014(Xem: 24929)
Đại Sư tên là Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sinh ra ngài nhằm giờ tý, ngày mùng tám tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12. Khi ấy, hào quang từ nhà ngài chiếu sáng lên không trung, mùi hương lạ tỏa lan khắp nhà. Đến tảng sáng, có hai vị tăng lạ mặt đến thăm, bảo cha ngài rằng: “Khuya nay ông vừa sinh quý tử, chúng tôi đến đây là để đặt tên cho cháu bé. Ông nên đặt trước là chữ Huệ, sau là chữ Năng.”
17/08/2014(Xem: 23998)
Nhân quả báo ứng là một tập truyện của Trung Quốc, có vẽ tranh minh họa rất sinh động. Tập truyện này trước do ngài Văn Xương Đế Quân đời nhà Tấn sưu tập những truyện nói về nhân quả và sự báo ứng qua nhiều triều đại ở Trung Quốc.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]