Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

[311 - 320]

13/02/201217:42(Xem: 8606)
[311 - 320]

DẠO BƯỚC VƯỜN THIỀN

(333 Câu Chuyện Thiền)

Đỗ Đình Đồng góp nhặt

 

311. LÀM SAO QUÊN ĐƯỢC

Một hôm cư sĩ đến trước Đan Hà đứng chắp tay. Sau một lát, cư sĩ bỏ đi. Đan Hà không buồn để ý.

Cư sĩ trở lại, ngồi xuống. Đan Hà đến trước cư sĩ đứng chắp tay. Sau một lát, sư trở về phương trượng.

Cư sĩ nói:

- Tôi đi vào, thầy đi ra. Chúng ta chẳng đi đến đâu cả.

Đan Hà đáp:

- Cái lão này vào ra, vào ra--bao giờ mới dứt!

Cư sĩ nói:

- Thầy chẳng chút từ bi.

Đan Hà than:

- Ta đã khiến lão này đến tình cảnh như vậy.

Cư sĩ hỏi:

- Thầy đã khiến cái gì?

Ngay đó, Đan Hà giở lấy cái mũ trên đầu cư sĩ và nói:

- Ông giống y như một lão tăng.

Cư sĩ lấy cái mũ đội lên đầu Đan Hà, nói:

- Thầy giống y như một thường nhân trẻ.

Đan Hà đồng ý:

- Thưa ngài, đúng, đúng.

Cư sĩ nói:

- Thầy vẫn còn tinh thần thời xưa.

Đan Hà ném cái mũ xuống, nói:

- Rất giống mũ nhà quan.

Cư sĩ thừa nhận:

- Thưa ngài, đúng, đúng.

Đan Hà nói:

- Làm sao tôi quên được tinh thần thời xưa.

Cư sĩ búng ngón tay ba lần, nói:

- Chuyển trời, chuyển đất.

(Bàng Cư Sĩ Ngữ Lục)

312. HÃY CÒN CÂU THỨ NHÌ

Một hôm khi Đan Hà thấy cư sĩ đến liền làm thế chạy.

Cư sĩ nói:

- Đó là thế phóng chụp, còn thế gầm gừ đâu?

Đan Hà bèn ngồi xuống.

Cư sĩ dùng gậy vẽ số bảy trước mặt Đan Hà. Đan Hà liền vẽ số một ngay dưới số bảy.

Cư sĩ nói:

- Vì bảy, thấy một; thấy một, quên bảy.

Đan Hà đứng dậy.

Cư sĩ nói:

- Hãy ngồi thêm chút nữa. Vẫn còn câu thứ nhì.

Đan Hà hỏi:

- Tôi đặt một trước ngữ vào đây được chăng?

- Ô! Ô! Ô!

Cư sĩ khóc và bỏ đi.

(Bàng Cư Sĩ Ngữ Lục)

313. AI NHỜ MAY MÀ THUA

Một hôm, khi Bàng cư sĩ và Đan Hà cùng đi với nhau, chợt thấy một ao nước trong. Cư sĩ lấy tay chỉ ao nước, nói:

- Như hiện tại, chúng ta chẳng thể phân biệt được nó.

Đan Hà đáp:

- Dĩ nhiên, chẳng thể phân biệt được.

Cư sĩ dùng tay tạt Đan Hà hai bụm nước.

Đan Hà kêu:

- Đừng làm vậy, đừng làm vậy!

Cư sĩ đáp:

- Tôi phải làm, tôi phải làm!

Vì thế, Đan Hà tạt cư sĩ ba bụm nước, nói:

- Bây giờ ông làm được gì?

Cư sĩ đáp:

- Không gì khác.

Đan Hà nói:

- Người ta hiếm khi nhờ may mà thắng.

Cư sĩ đáp:

- Ai nhờ may mà thua.

(Bàng Cư Sĩ Ngữ Lục)

314. LÃO GIÀ GANH TỊ CHẲNG PHÂN TỐT XẤU

Một hôm Đan Hà đang đeo tòong teng xâu chuỗi trên tay. Bàng cư sĩ đến, giựt lấy xâu chuỗi, nói:

- Hai chúng ta đều tay không cả. Bây giờ tất cả đã qua.

Đan Hà nói:

- Lão già ganh tị, chẳng phân tốt xấu.

Cư sĩ nói:

- Tôi thực chẳng biết ý thầy. Tôi sẽ chẳng như vậy nữa.

Đan Hà rống lên:

- Ma.a..., ma.a..!

Cư sĩ kêu:

- Thầy ghê quá, thầy ơi!

Đan Hà nói:

- Tôi thiếu cây gậy.

Cư sĩ nói:

- Tôi già rồi, chẳng chịu nổi gậy đâu.

Đan Hà đáp:

- Lão gan lì, đánh lão làm gì?

Cư sĩ nói:

- Thầy vẫn chưa có kế dụ tôi.

Đan Hà bỏ xâu chuỗi, ra đi.

Cư sĩ kêu:

- Lão ăn cắp! Lão sẽ chẳng bao giờ đến lấy nó lại.

Đan Hà quay đầu lại, cười khoan khoái:

- Ha, ha!

Cư sĩ kêu:

- Lão ăn cắp, lão thua rồi!

Đan Hà đến nắm lấy cư sĩ, nói:

- Lão chẳng nên bảo thủ như vậy.

Cư sĩ tát sư một cái.

(Bàng Cư Sĩ Ngữ Lục)

315. BÀNG CƯ SĨ ĐỌC KINH

Một hôm Bàng cư sĩ nằm trên trường kỷ đọc kinh. Một ông tăng thấy vậy liền nói:

- Cư sĩ! Ông phải giữ oai nghi khi đọc kinh chứ.

Cư sĩ liền giơ một chân lên.

Ông tăng không lời để nói.

(Bàng Cư Sĩ Ngữ Lục)

316. MAI ĐÃ CHÍN CHƯA

Bàng cư sĩ viếng Thiền sư Đại Mai Pháp Thường. Khó khăn lắm họ mới gặp nhau, cư sĩ nói:

- Tôi muốn gặp huynh lâu lắm rồi, Đại Mai. Không biết mai đã chín chưa?

Đại Mai kêu lên:

- Chín rồi! Ông muốn cắn bên nào?

Cư sĩ đáp:

- Mức trái cây khô.

Đại Mai chìa tay ra nói:

- Trả miếng mai lại cho tôi.

Cư sĩ bỏ đi.

(Bàng Cư Sĩ Ngữ Lục)

317. MỘT CÂU CŨNG CHẲNG CẦN

Bàng cư sĩ đến chỗ Thiền sư Đại Ngu. Đại Ngu đãi ăn. Khi Đại Ngu đưa thức ăn cho cư sĩ, cư sĩ sắp nhận lấy thì Đại Ngu rụt tay lại, nói:

- Ngày xưa Duy Ma Cật phê bình việc nhận của bố thí khi tâm động. Ông có đồng ý hành động này chăng?

Cư sĩ hỏi:

- Trường hợp đó, Tu Bồ Đề chẳng phải là hàng lão thông sao?

Đại Ngu đáp:

- Tôi chẳng quan tâm chuyện ông ta.

Cư sĩ nói:

- Khi thức ăn đến miệng [Tu Bồ Đề] thì Duy Ma Cật giựt lại.

Vì vậy Đại Ngu để đồ ăn xuống.

Cư sĩ nói:

- Một câu cũng chẳng cần.

(Bàng Cư Sĩ Ngữ Lục)

318. MIỆNG CÂM MẮT MÙ

Cư sĩ đến viếng Thiền sư Lạc Phố. Vừa bái chào sư xong, cư sĩ nói:

- Giữa hè nóng chết người, đầu đông lạnh đóng băng.

Lạc Phố đáp:

- Chớ lầm.

Cư sĩ nói:

- Tôi già rồi.

Lạc Phố nói:

- Sao không nói “lạnh” khi lạnh, và “nóng” khi nóng.

Cư sĩ hỏi:

- Mắc phải điếc có gì là tốt?

Lạc Phố nói:

- Tha ông hai chục gậy.

Cư sĩ đáp:

- Thầy làm tôi câm miệng, tôi làm thầy mù mắt.

(Bàng Cư Sĩ Ngữ Lục)

319. ĐƯỜNG ẤY ĐI ĐÂU

Một hôm Bàng cư sĩ gặp một cậu bé chăn trâu. Cư sĩ hỏi:

- Đường ấy đi đâu?

Cậu bé chăn trâu đáp:

- Tôi chẳng biết đường ấy.

Cư sĩ kêu lên:

- Ngươi kẻ chăn trâu!

Cậu bé chăn trâu đáp:

- Ông lão súc sanh!

Cư sĩ lại hỏi:

- Hôm nay là thời gì?

Cậu bé chăn trâu đáp:

- Thời trồng lúa.

Cư sĩ cười sảng khoái.

(Bàng Cư Sĩ Ngữ Lục)

320. CHUYỂN Y CÔNG ĐỨC

Một hôm vợ Bàng cư sĩ đến chùa Lộc Môn cúng dường thực phẩm. Vị hòa thượng của chùa hỏi bà mục đích việc cúng dường để chuyển y công đức. Bà liền lấy cái lược cài lên mái phía sau. “Công đức đã chuyển xong,” bà vừa nói vừa bước ra.

(Bàng Cư Sĩ Ngữ Lục)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/10/2014(Xem: 4646)
Hai kẻ thù đã lâu đời, hai chàng trai trẻ nhất thuộc hai dòng tộc võ sĩ đạo lâm chiến, đang rình rập nhau trong vùng hẻm núi dưới mé sông trong lúc bà con dòng họ đôi bên đang chém giết lẫn nhau trên phía đồng bằng. Mối hận thù nẩy sinh giữa hai chàng sâu đậm đến độ như muốn lộn mửa, và khi trông thấy nhau, mỗi chàng đều nguyện cầu: “Lạy Trời nếu con phải chết, xin cho con gây ra tử thương cho kẻ oán thù trước khi con lìa đời.”
18/10/2014(Xem: 43774)
Uống trà là một nét đẹp văn hóa truyền thống của Á Đông theo phương châm“Bình minh nhất trản trà". Cách đây hàng ngàn năm, con người đã biết đến trà như một loại nước uống mang lại sự sảng khoái, thanh khiết cho tinh thần, là cách để khai tâm mở trí. Người ta xem chén trà là đầu câu chuyện, là gợi mở tâm linh, là giao thoa văn hóa và kết nối lòng người.
10/10/2014(Xem: 4379)
Từ lâu, người ta tin rằng có một cái “bản ngã” thường hằng, bất biến, tồn tại độc lập trong vạn pháp. Trước sự nhầm lẫn tai hại đó, Phật Thích Ca bèn nói thuyết “Vô ngã” để chúng sinh phá chấp. “Vô ngã” không phải không có gì hết mà là không có tự tánh, không có tự thể riêng biệt. Đây là một trong ba Pháp ấn trong hệ thống giáo lý của Phật giáo (hai pháp ấn kia là Khổ và Vô thường). Gọi là Pháp ấn có nghĩa là trong tám mươi bốn ngàn pháp môn của đạo Phật nếu có pháp môn nào không có một trong ba khái niệm Khổ, Vô thường và Vô ngã thì không phải giáo lý đạo Phật.
03/10/2014(Xem: 4325)
Học sinh thường cho rằng, các thầy cô chỉ nhớ tên học sinh giỏi, học sinh đẹp hoặc hoạt động hiệu đoàn... Cho nên mỗi lần nếu tôi gặp lại một em học sinh không có gì xuất sắc ngày xưa mà tôi còn nhớ tên, thì đó là một niềm vui to lớn của em là được thầy cô còn nhớ mặt và nhớ tên của mình. Sau khi cuộc chiến lan tràn trên quê hương thầy trò phân tán, tôi đi cùng nam cực bắc, đi xa nửa trái địa cầu, rải rác khắp nơi, tôi vẫn gặp lại những em học sinh Đồng Khánh cũ. Và nhờ cố gắng nhớ mặt, nhớ tên các em, nên hầu như ở đâu tôi cũng gieo được chút niềm vui cho những người đang phập phồng chờ được gọi đích danh sau một câu mở đầu công thức: „Cô còn nhớ em không?“. Những con người ấy, những học sinh Đồng Khánh tha phương - xa trường, xa thầy bạn cũ đã xưa rất xưa, mà chính bản thân khi soi gương cũng không còn bắt được hình bóng mình ngày ấy..., bất giác còn được gọi tên, còn được nhớ, còn được nhắc nhở đến bao kỷ niệm của một thời. Ôi! Vui biết bao nhiêu, ấm áp ngọt ngào biết bao nhiêu
02/10/2014(Xem: 4227)
Ra đến bến xe trời hãy còn khuya khoắt, trông cảnh nhộn nhịp ì xèo rộn lên từ những gian hàng ăn uống ở một góc gần bên, và tiếng nói cười lăng xăng của hành khách đi lại lẫn với tiếng những người bán hàng rong mời mọc. Nhìn sang quầy bán vé bây giờ không giống như những ngày tháng sau năm 1975, bề mặt thoáng mát rộng rãi trang trí bởi những bảng quảng cáo, những hoa văn sắc màu, những hàng ghế để khách ngồi chờ trông lịch sự. Khách mua vé rất nhanh khỏe hơn xưa, không còn cảnh chen lấn xếp hàng cả buổi trời như trước đây, lại có thêm nhiều loại xe phục vụ trên các tuyến, việc nầy còn tùy thuộc vào túi tiền của hành khách, ai có tiền nhiều thì đi loại xe chất lượng cao, còn ai ít tiền thì đi loại xe bình dân hơn. Nói vậy chứ còn khá hơn trước Đây, bởi ba chiếc xe car cũ kỹ hoặc xe chạy bằng than đá trên những tuyến Miền Đông, Miền Tây vào những năm 1975 - 1990.
24/09/2014(Xem: 6345)
Xưa có một người quyết tâm học đạo, theo một vị thiền sư sống trong một cái cốc nhỏ, sống đạm bạc, quyết chí tu hành. Một này kia, có công việc, vị thiền sư phải đi xa, dặn đệ tử ở lại phải lo chăm chỉ tu hành, luôn luôn giữ lối sống đạm bạc và tâm hồn thanh tịnh. Người đệ tử này chỉ có một chiếc khố che thân. Đêm tới khi ngủ, máng khố trên vách, thường bị chuột chui ra cắn rách, phải xin bá tánh chút vải thừa thay khố nhiều lần.
03/09/2014(Xem: 4612)
Lúc đó tôi được 13 tuổi. Trước đó một năm gia đình tôi đã chuyển từ Bắc Florida đến miền Nam California. Tôi dễ hận thù khi vừa đến tuổi vị thành niên. Tôi rất nóng nảy và hay cãi lại đối với bất cứ chuyện gì dù nhỏ mà ba mẹ đề cập tới, đặc biệt là nếu nó liên quan đến tôi. Cũng giống như nhiều đứa trẻ lứa tuổi thiếu niên, tôi khó chấp nhận bất cứ điều gì đi ngược lại với quan điểm của mình về thế giới chung quanh. Một đứa bé “thông minh không cần dạy bảo”. Tôi phản đối bất cứ biểu lộ nào của tình thương. Thật sự, tôi dễ giận dữ khi đề cập đến cái từ “thương yêu”.
26/08/2014(Xem: 4026)
Ở ven bờ bể Mễ Tây Cơ, có một làng nhỏ chuyên sống nghề đánh cá, một chiếc thuyền con lướt sóng nhẹ vào bờ, đem về vài con cá khá to. Một ông khách Mỹ đứng trên bờ, khen ngợi nghề đánh cá tài giỏi của anh chàng Mễ Tây Cơ và hỏi anh ta mất bao nhiêu thì giờ mới được chừng đó cá. _ “ Không lâu lắm đâu !” anh Mễ Tây Cơ trả lời.
17/08/2014(Xem: 24929)
Đại Sư tên là Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sinh ra ngài nhằm giờ tý, ngày mùng tám tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12. Khi ấy, hào quang từ nhà ngài chiếu sáng lên không trung, mùi hương lạ tỏa lan khắp nhà. Đến tảng sáng, có hai vị tăng lạ mặt đến thăm, bảo cha ngài rằng: “Khuya nay ông vừa sinh quý tử, chúng tôi đến đây là để đặt tên cho cháu bé. Ông nên đặt trước là chữ Huệ, sau là chữ Năng.”
17/08/2014(Xem: 23998)
Nhân quả báo ứng là một tập truyện của Trung Quốc, có vẽ tranh minh họa rất sinh động. Tập truyện này trước do ngài Văn Xương Đế Quân đời nhà Tấn sưu tập những truyện nói về nhân quả và sự báo ứng qua nhiều triều đại ở Trung Quốc.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]