Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

[201 - 210]

13/02/201217:42(Xem: 8833)
[201 - 210]

DẠO BƯỚC VƯỜN THIỀN

(333 Câu Chuyện Thiền)

Đỗ Đình Đồng góp nhặt

 

201. VÌ CÓ TÔI Ở ĐÂY

Một hôm khi Vân Nham đang pha trà, thì sư huynh là Đạo Ngô bước vào thấy, liền hỏi:

- Trà cho ai đó ?

Vân Nham đáp:

- Có người cần uống.

Đạo Ngô hỏi tiếp:

- Người đó không biết tự làm lấy sao?

Vân Nham đáp:

- Chỉ vì có tôi ở đây.

(Chơn Không Gầm Thét)

202. TIẾNG MƯA RƠI

Thiền sư Cảnh Thanh hỏi một đệ tử:

- Tiếng gì bên ngoài đó?

Đệ tử đáp:

- Tiếng mưa rơi.

Cảnh Thanh nói:

- Chúng sinh điên đảo, buông mình theo vật.

Đệ tử hỏi:

- Con nên hiểu thế nào?

Cảnh Thanh đáp:

- Ta là tiếng mưa rơi.

(Chơn Không Gầm Thét)

203. TRỞ VỀ TAY KHÔNG

Lúc còn trẻ Thiền sư thạch Đầu Hy Thiên là đệ tử của Lục Tổ Huệ Năng. Sau khi Huệ Năng nhập diệt, Thạch Đầu tiếp tục hành hương. . .

Sư đến tham kiến Đại sư Hành Tư ở Thanh Nguyên. Hành Tư hỏi:

- Ông từ đâu đến?

Thạch Đầu đáp:

- Từ Tào Khê đến.

Hành Tư hỏi tiếp:

- Ở Tào Khê ông được gì?

Thạch Đầu đáp:

- Trước khi đến Tào Khê, chẳng thiếu thứ gì.

Hành Tư lại hỏi:

- Vậy, tại sao đến?

Thạch Đầu đáp:

- Nếu không đến Tào Khê, làm sao biết mình chẳng từng thiếu?

(Chơn Không Gầm Thét)

204. ĐI TRONG MƯA

Một ông thầy hỏi đám đệ tử:

- Hai người đang đi trong mưa, có một người không bị ướt. Có anh nào biết tại sao không?

- Bởi vì người ấy mặc áo mưa.

- Bởi vì mưa rải rác nên anh ta không bị ướt.

- Bởi vì một người đi trên đường phố và người kia đi trong chỗ có nhà cao che phủ.

Các đệ tử tranh nhau trả lời.

Ông thầy kết thúc:

- Tất cả các anh đều tập trung vào một người không bị ướt, vì thế dĩ nhiên không ai khám phá ra sự thật. Nghe đây, khi tôi nói, “một người không bị ướt,” không phải là cả hai đều bị ướt sao?

(Chơn Không Gầm Thét)

205. CÓ VÀ KHÔNG

Có một tú tài tên là Trương Chuyết hỏi Thiền sư Trí Tạng ở Tây Đường:

- Có thiên đường và địa ngục không?

Trí Tạng đáp:

- Có.

Trương Chuyết phản đối:

- Cái đó không đúng. Tôi thường tham học với hòa thượng Cảnh Sơn, hòa thượng Cảnh Sơn luôn luôn nói chẳng có.

Trí Tạng hỏi:

- Ông có vợ con không?

Trương Chuyết đáp:

- Tôi có một vợ hai con.

Trí Tạng lại hỏi:

- Hoà thượng Cảnh Sơn có vợ con không?

Trương Chuyết đáp:

- Hoà thượng Cảnh Sơn là một nhà sư, làm sao có vợ con được?!

Trí Tạng nói:

- Này, đợi khi nào ông giống như hòa thượng Cảnh Sơn, không có gia đình rồi hãy nói không.

(Chơn Không Gầm Thét)

206. THEO DÒNG MÀ ĐI

Sau khi ngộ Đạo nơi Đại sư Mã Tổ, Thiền sư Pháp Thường về trụ ở núi Đại Mai. Một hôm có một ông tăng hành cước lạc đường trong núi Đại Mai, chợt gặp sư. Ông tăng hỏi:

- Ngài ở núi này được bao lâu rồi?

Pháp Thường đáp:

- Tôi chỉ thấy núi xanh lại vàng.

Ông tăng lại hỏi:

- Ngài có thể chỉ giúp tôi đường nào ra khỏi núi chăng?

Pháp Thường đáp:

- Hãy theo dòng mà đi.

(Chơn Không Gầm Thét)

207. TỚI LUI ĐỀU KHÓ

Thiền sư Pháp Vân một hôm nói với các đệ tử:

- Giả sử anh đang ở trong tình thế nếu tiến tới, anh sẽ mất Đạo; nếu lùi lại, anh sẽ mất đời; và nếu chẳng tới cũng chẳng lùi, anh sẽ giống như hòn đá ngu si. Vậy anh sẽ làm gì?

Một đệ tử hỏi:

- Có cách nào chúng ta có thể đừng trông giống thằng ngu không?

Sư đáp:

- Hãy bỏ cả khước từ và vướng mắc, và hành động theo tiềm năng.

Một đệ tử hỏi:

- Nhưng nếu hành động, liệu chúng ta có thể thoát được mất cả đạo lẫn đời không?

Sư đáp:

- Tới lui cùng một lúc.

(Chơn Không Gầm Thét)

208. KHÔNG BẰNG THẰNG HỀ

Bạch Vân Thủ Đoan là đệ tử của Dương Kỳ Phương Hội. Thủ Đoan là người rất cần mẫn nhưng thiếu óc khôi hài.

Có lần Dương Kỳ hỏi sư:

- Bổn sư của ông trước kia là ai ?

Thủ Đoan đáp:

- Tra Lăng Úc.

Dương Kỳ nói:

- Tôi nghe nói rằng Thiền sư Úc đã ngộ lúc ông ta trượt chân té từ trên cầu xuống nước. Ông ta còn làm bài kệ nữa.

Thủ Đoan đáp:

- Dạ đúng. Con vẫn còn nhớ bài kệ ấy.

Ta có hòn ngọc sáng,

Lâu rồi bụi phủ mờ.

Bây giờ bụi đã hết,

Sáng chiếu khắp núi sông.

Dương Kỳ bỗng cười lên ha hả... và bỏ đi.

Thủ Đoan không hiểu được tại sao thầy cười và mất ngủ cả đêm.

Sáng sớm hôm sau, Thủ Đoan hỏi thầy:

- Bạch hòa thượng, tại sao hòa thượng lại cười bài kệ của thầy Úc dữ vậy?

Dương Kỳ hỏi:

- Ông có thấy mấy người Sơn Đông làm xiếc ngày hôm qua không?

Thủ Đoan đáp:

- Dạ có.

Dương Kỳ nói:

- Có một điểm ông không bằng mấy người làm xiếc ấy.

Thủ Đoan hỏi:

- Điểm gì thế, bạch hòa thượng?

- Bọn làm xiếc đó thích người ta cười, còn ông sợ người ta cười.

Ngay lời ấy, Thủ Đoan ngộ đạo.

(Chơn Không Gầm Thét)

209. CÁI GÌ CHẲNG PHẢI PHẬT PHÁP?

Một ông tăng đến từ giả Thiền sư Điểu Sào đi hành cước, nói:

- Cảm ơn hòa thượng tất cả mọi điều. Bây giờ con đi.

Điểu Sào hỏi:

- Ông sẽ đi đâu?

Đệ tử đáp:

- Khắp các nơi để học Phật pháp.

Điểu Sào bảo:

- Nói đến Phật pháp tôi cũng có chút ít đây.

Đệ tử hỏi:

- Ở đâu vậy?

Điểu Sào liền rút một sợi chỉ từ ống tay áo ra nói:

- Đây chẳng phải là Phật pháp sao?

(Chơn Không Gầm Thét)

210. BẮT HƯ KHÔNG

Thạch Củng Huệ Tạng hỏi sư đệ là Tây Đường Trí Tạng:

- Chú bắt được hư không chăng?

Trí Tạng đáp:

- Hẳn rồi.

Thạch Củng bảo:

- Hãy thử xem.

- Được.

Nói xong, Trí Tạng đưa tay chụp lấy hư không.

Thạch Củng phê bình:

- Thế sao? Chú chẳng được chi hết.

Trí Tạng hỏi:

- Sư huynh bắt được chăng?

Thạch Củng liền nắm mũi Trí Tạng kéo mạnh. Trí Tạng kêu:

- Ui cha! Đau quá! Đau quá!

(Chơn Không Gầm Thét)


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/10/2014(Xem: 4788)
Hai kẻ thù đã lâu đời, hai chàng trai trẻ nhất thuộc hai dòng tộc võ sĩ đạo lâm chiến, đang rình rập nhau trong vùng hẻm núi dưới mé sông trong lúc bà con dòng họ đôi bên đang chém giết lẫn nhau trên phía đồng bằng. Mối hận thù nẩy sinh giữa hai chàng sâu đậm đến độ như muốn lộn mửa, và khi trông thấy nhau, mỗi chàng đều nguyện cầu: “Lạy Trời nếu con phải chết, xin cho con gây ra tử thương cho kẻ oán thù trước khi con lìa đời.”
18/10/2014(Xem: 43897)
Uống trà là một nét đẹp văn hóa truyền thống của Á Đông theo phương châm“Bình minh nhất trản trà". Cách đây hàng ngàn năm, con người đã biết đến trà như một loại nước uống mang lại sự sảng khoái, thanh khiết cho tinh thần, là cách để khai tâm mở trí. Người ta xem chén trà là đầu câu chuyện, là gợi mở tâm linh, là giao thoa văn hóa và kết nối lòng người.
10/10/2014(Xem: 4473)
Từ lâu, người ta tin rằng có một cái “bản ngã” thường hằng, bất biến, tồn tại độc lập trong vạn pháp. Trước sự nhầm lẫn tai hại đó, Phật Thích Ca bèn nói thuyết “Vô ngã” để chúng sinh phá chấp. “Vô ngã” không phải không có gì hết mà là không có tự tánh, không có tự thể riêng biệt. Đây là một trong ba Pháp ấn trong hệ thống giáo lý của Phật giáo (hai pháp ấn kia là Khổ và Vô thường). Gọi là Pháp ấn có nghĩa là trong tám mươi bốn ngàn pháp môn của đạo Phật nếu có pháp môn nào không có một trong ba khái niệm Khổ, Vô thường và Vô ngã thì không phải giáo lý đạo Phật.
03/10/2014(Xem: 4405)
Học sinh thường cho rằng, các thầy cô chỉ nhớ tên học sinh giỏi, học sinh đẹp hoặc hoạt động hiệu đoàn... Cho nên mỗi lần nếu tôi gặp lại một em học sinh không có gì xuất sắc ngày xưa mà tôi còn nhớ tên, thì đó là một niềm vui to lớn của em là được thầy cô còn nhớ mặt và nhớ tên của mình. Sau khi cuộc chiến lan tràn trên quê hương thầy trò phân tán, tôi đi cùng nam cực bắc, đi xa nửa trái địa cầu, rải rác khắp nơi, tôi vẫn gặp lại những em học sinh Đồng Khánh cũ. Và nhờ cố gắng nhớ mặt, nhớ tên các em, nên hầu như ở đâu tôi cũng gieo được chút niềm vui cho những người đang phập phồng chờ được gọi đích danh sau một câu mở đầu công thức: „Cô còn nhớ em không?“. Những con người ấy, những học sinh Đồng Khánh tha phương - xa trường, xa thầy bạn cũ đã xưa rất xưa, mà chính bản thân khi soi gương cũng không còn bắt được hình bóng mình ngày ấy..., bất giác còn được gọi tên, còn được nhớ, còn được nhắc nhở đến bao kỷ niệm của một thời. Ôi! Vui biết bao nhiêu, ấm áp ngọt ngào biết bao nhiêu
02/10/2014(Xem: 4324)
Ra đến bến xe trời hãy còn khuya khoắt, trông cảnh nhộn nhịp ì xèo rộn lên từ những gian hàng ăn uống ở một góc gần bên, và tiếng nói cười lăng xăng của hành khách đi lại lẫn với tiếng những người bán hàng rong mời mọc. Nhìn sang quầy bán vé bây giờ không giống như những ngày tháng sau năm 1975, bề mặt thoáng mát rộng rãi trang trí bởi những bảng quảng cáo, những hoa văn sắc màu, những hàng ghế để khách ngồi chờ trông lịch sự. Khách mua vé rất nhanh khỏe hơn xưa, không còn cảnh chen lấn xếp hàng cả buổi trời như trước đây, lại có thêm nhiều loại xe phục vụ trên các tuyến, việc nầy còn tùy thuộc vào túi tiền của hành khách, ai có tiền nhiều thì đi loại xe chất lượng cao, còn ai ít tiền thì đi loại xe bình dân hơn. Nói vậy chứ còn khá hơn trước Đây, bởi ba chiếc xe car cũ kỹ hoặc xe chạy bằng than đá trên những tuyến Miền Đông, Miền Tây vào những năm 1975 - 1990.
24/09/2014(Xem: 6444)
Xưa có một người quyết tâm học đạo, theo một vị thiền sư sống trong một cái cốc nhỏ, sống đạm bạc, quyết chí tu hành. Một này kia, có công việc, vị thiền sư phải đi xa, dặn đệ tử ở lại phải lo chăm chỉ tu hành, luôn luôn giữ lối sống đạm bạc và tâm hồn thanh tịnh. Người đệ tử này chỉ có một chiếc khố che thân. Đêm tới khi ngủ, máng khố trên vách, thường bị chuột chui ra cắn rách, phải xin bá tánh chút vải thừa thay khố nhiều lần.
03/09/2014(Xem: 4732)
Lúc đó tôi được 13 tuổi. Trước đó một năm gia đình tôi đã chuyển từ Bắc Florida đến miền Nam California. Tôi dễ hận thù khi vừa đến tuổi vị thành niên. Tôi rất nóng nảy và hay cãi lại đối với bất cứ chuyện gì dù nhỏ mà ba mẹ đề cập tới, đặc biệt là nếu nó liên quan đến tôi. Cũng giống như nhiều đứa trẻ lứa tuổi thiếu niên, tôi khó chấp nhận bất cứ điều gì đi ngược lại với quan điểm của mình về thế giới chung quanh. Một đứa bé “thông minh không cần dạy bảo”. Tôi phản đối bất cứ biểu lộ nào của tình thương. Thật sự, tôi dễ giận dữ khi đề cập đến cái từ “thương yêu”.
26/08/2014(Xem: 4141)
Ở ven bờ bể Mễ Tây Cơ, có một làng nhỏ chuyên sống nghề đánh cá, một chiếc thuyền con lướt sóng nhẹ vào bờ, đem về vài con cá khá to. Một ông khách Mỹ đứng trên bờ, khen ngợi nghề đánh cá tài giỏi của anh chàng Mễ Tây Cơ và hỏi anh ta mất bao nhiêu thì giờ mới được chừng đó cá. _ “ Không lâu lắm đâu !” anh Mễ Tây Cơ trả lời.
17/08/2014(Xem: 25541)
Đại Sư tên là Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sinh ra ngài nhằm giờ tý, ngày mùng tám tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12. Khi ấy, hào quang từ nhà ngài chiếu sáng lên không trung, mùi hương lạ tỏa lan khắp nhà. Đến tảng sáng, có hai vị tăng lạ mặt đến thăm, bảo cha ngài rằng: “Khuya nay ông vừa sinh quý tử, chúng tôi đến đây là để đặt tên cho cháu bé. Ông nên đặt trước là chữ Huệ, sau là chữ Năng.”
17/08/2014(Xem: 24374)
Nhân quả báo ứng là một tập truyện của Trung Quốc, có vẽ tranh minh họa rất sinh động. Tập truyện này trước do ngài Văn Xương Đế Quân đời nhà Tấn sưu tập những truyện nói về nhân quả và sự báo ứng qua nhiều triều đại ở Trung Quốc.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]