- [01 - 10]
- [11 - 20]
- [21 - 30]
- [31 - 40]
- [41 - 50]
- [51 - 60]
- [61 - 70]
- [71 - 80]
- [81 - 90]
- [91 - 100]
- [101 - 110]
- [111 - 120]
- [121 - 130]
- [131 - 140]
- [141 - 150]
- [151 - 160]
- [161 - 170]
- [171 - 180]
- [181 - 190]
- [191 - 200]
- [201 - 210]
- [211 - 220]
- [221 - 230]
- [231 - 240]
- [241 - 250]
- [251 - 260]
- [261 - 270]
- [271 - 280]
- [281 - 290]
- [291 - 300]
- [301 - 310]
- [311 - 320]
- [321 - 333]
- Thư mục
DẠO BƯỚC VƯỜN THIỀN
(333 Câu Chuyện Thiền)
Đỗ Đình Đồng góp nhặt
251. LÀ NGƯỜI HAY LÀ PHẬT?
Hòa thượng Từ Phong Hải Quýnh (1728-1811) là truyền nhân đời thứ ba phái Liên Tông thuộc dòng Thiền Lâm Tế Việt Nam.
Năm 16 tuổi, sư đến chùa Liên Tông đảnh lễ Thiền sư Tính Dược xin thế độ. Tính Dược bảo:
- Ngươi thân như mọi rợ đâu kham lãnh đại pháp?
Sư đáp:
- Thân tuy mọi rợ mà tâm đồng Phật Tổ.
Tính Dược bảo:
- Ta hỏi một câu ngươi đáp được thì độ cho, bằng không đáp được, cho một tiền đi tìm thiện tri thức khác.
Sư đáp:
- Thỉnh hòa thượng hỏi.
Tính Dược hỏi:
-Ngươi là người hay là Phật? Là thật hay là giả?
Sư đáp:
- Người Phật vốn không, huống hồ là có thật giả.
Tính Dược khen:
- Hay lắm! Ngươi liễu đạo vậy.
(Thiền Sư Việt Nam)
252. ĐẦY MẮT NÚI XANH
Khi Thiền sư Pháp Nhãn ra mặt với đời, hội chúng có năm trăm người. Lúc ấy Phật Pháp đại hưng thịnh, Quốc sư Đức Thiều đã ở với Sơ Sơn một thời gian lâu, tự cho là đã đạt yếu chỉ của Sơ Sơn. Vì vậy Đức Thiều mới thu thập tất cả bút tích và di ảnh của Sơ Sơn, dẫn tăng chúng đi hành cước. Đến chỗ của Pháp Nhãn, bản thân Đức Thiều không vào thất mà chỉ bảo đệ tử theo những người khác vào thất của Pháp Nhãn.
Một hôm, Pháp Nhãn lên tòa, có một ông tăng hỏi:
- Thế nào là một giọt nước Tào khê?
Pháp Nhãn đáp:
- Là một giọt nước Tào khê.
Ông tăng mờ mịt, thối lui. Lúc đó Đức Thiều có mặt trong hội chúng, nghe được, bỗng nhiên đại ngộ.
Sau này, sư xuất hiện với tư cách là một trong những người thừa kế Pháp Nhãn. Đức Thiều trình bài kệ sau đây:
Thông huyền đỉnh núi,
Chẳng phải nhân gian;
Ngoài tâm không vật,
Đầy mắt núi xanh.
Pháp Nhãn ấn chứng cho và nói: “Chỉ một bài kệ này cũng đủ thừa kế tông môn ta. Ngày sau, vua chúa sẽ tôn vinh ông. Ta chẳng bằng ông.”
(Bích Nham Lục)
253. TẤM LÒNG TRONG SẠCH
Một nhóm người ăn mày khốn khổ vì bịnh cùi đến hội chúng của Bàn Khuê, một Thiền sư có tấm lòng đại độ. Bàn Khuê chấp nhận họ vào hội chúng, và khi điểm hóa họ, sư còn tự tay tắm rửa và cạo đầu cho họ nữa.
Khi sự việc diễn ra, có một ông lịch sự có mặt ở đó, vị đại diện của một người có thế lực tin tưởng Thiền sư Bàn Khuê, đã lập một ngôi chùa trong tỉnh để Bàn Khuê huấn luyện đệ tử và nói pháp cho mọi người nghe.
Tức giận vì thấy Thiền sư cạo đầu cho bọn đê tiện, người lịch sự kia vội vàng đi múc một thau nước cho Bàn Khuê rửa tay. Nhưng sư từ chối, nói: “Sự kinh tởm của ông còn dơ bẩn hơn những vết thương lở loét của họ.”
(Giai Thoại Thiền)
254. THIỀN VÀ THUẬT TRỊ NƯỚC
Một lãnh chúa thường tham kiến Thiền sư Thiên Quế Truyền Tông (1648-1735), hỏi về yếu chỉ Phật pháp. Khi sư bị bệnh lần cuối, vị lãnh chúa phái một sứ giả đến thăm hỏi. Thiên Quế gửi sứ giả một lá thư ngắn mang về cho lãnh chúa:
‘Tề gia và trị quốc cũng là tu đạo. Hãy thận trọng áp dụng những chính sách nhân từ, nhờ đó sẽ có sự tin cậy và hòa hợp giữa người cai trị và kẻ bị trị. Đây là khuyên cuối cùng của tôi.”
(Giai Thoại Thiền)
255. GIẤY ĐI CẦU
Trong đám tăng chúng của Thiền sư Bạch Ẩn có một cuồng tăng, cho rằng mình đã ngộ và đồng nhất với Phật. Y xé kinh làm giấy đi cầu. Các tăng nhân khác đã cảnh cáo ông ta về chuyện này, nhưng ông tăng điên này không quan tâm, kiêu căng vặn lại: “Dùng kinh Phật lau đít Phật có gì là sai?”
Lúc ấy có người thuật lại chuyện này với Bạch Ẩn, sư hỏi ông ta: “Người ta nói ông dùng kinh Phật làm giấy đi cầu, có phải không?”
Ông tăng điên đáp: “Phải. Tôi chính là Phật. Dùng kinh Phật lau đít Phật có gì là sai ?”
Bạch Ẩn nói: “Ông sai rồi. Vì chính là đít Phật, sao ông lại dùng giấy cũ có chữ viết trên đó? Ông nên dùng giấy trắng sạch lau mới phải chứ.”
Ông tăng điên xấu hổ và xin lỗi.
(Giai Thoại Thiền)
256. TỈNH NGỘ
Thiền sư Setsugen nói với đệ tử là Jijo, “Nếu ông chuyên tâm tọa thiền bảy ngày bảy đêm không gián đoạn mà không ngộ, thì cứ cắt đầu tôi lấy sọ làm đồ chứa phân.”
Sau đó không bao lâu, Jijo bị bệnh kiết lỵ, liền lấy một cái thùng nhỏ mang đến một chỗ biệt lập chẳng ai đến. Jijo ngồi trên thùng chú tâm thiền định.
Jijo ngồi trên thùng bảy ngày liền, đến một đêm bỗng nhiên cảm thấy cả trời đất giống như cảnh tuyết dưới ánh trăng sáng ngời và toàn thể vũ trụ trở nên quá nhỏ hẹp, không thể chứa được mình.
Jijo nhập vào trạng thái này trong thời gian khá lâu cho đến khi nghe một âm thanh làm giật mình thức tỉnh. Toàn thân Jijo toát mồ hôi, cơn bệnh cũng biến mất. Jijo làm một bài kệ kỷ niệm:
Cái gì đây mà lung linh, sáng tỏ?
Mất tiêu liền trong nháy mắt lầm qua.
Cạnh cầu tiêu, chiếc mái dầm ngời sáng;
Rốt cuộc rồi, nó vốn là ta.
(Giai Thoại Thiền)
257. GAN RUỘT
Một lãnh chúa còn trẻ và thích võ thuật, học Thiền với Thiền sư Bàn Khuê. Một hôm, ông ta quyết định thử “gan ruột” của sư bằng cách dùng cây thương tập kích thình lình khi sư đang tĩnh tọa.
Thiền sư bình tĩnh làm lệch cú đánh bằng xâu chuỗi. Rồi sư bảo vị lãnh chúa: “Võ thuật của ông còn non nớt, tâm ông đã động trước.”
(Giai Thoại Thiền)
258. CHỚ LO LẮNG
Thiền sư Vô Học Tổ Nguyên là một trong những người sáng lập Thiền ở Nhật Bản. Sinh ở Trung Quốc, sư đã ngộ lần đầu tiên năm mười hai tuổi khi nghe bài kệ sau đây, lúc sư cùng cha đến viếng một ngôi chùa ở miền quê :
Bóng tre quét thềm,
Không động mảy bụi;
Ánh trăng soi nước,
Không lưu vết tích.
Khi đoàn quân Mông Cổ của Thành Cát Tư Hãn, tràn vào phía nam Trung Quốc năm 1275, Vô Học đã chạy tránh ngọn lửa chiến tranh; nhưng đến lúc tỉnh sư ẩn náu bị giày xéo vào năm sau, sư không chạy nữa.
Khi quân Mông Cổ gây giông bão tại tự viện Vô Học ngồi, tất cả tăng nhân khác và những người làm việc cho tự viện đều tìm chỗ trốn y như lũ chuột rúc vào hang.
Bọn lính tiến gần pháp đường chỗ sư ngồi một mình, chúng dí kiếm vào cổ sư. Sư hoàn toàn thản nhiên, bình tĩnh đọc bài kệ sau đây:
Đất trời mênh mông,
Không chỗ cắm dùi.
Vui thay biết được
Người pháp đều không.
Lưỡi kiếm Nguyên Mông
Dài và sáng rực
Chém ngọn gió xuân.
Xúc động vì phong thái không sợ hãi của sư, bọn lính Mông Cổ cất kiếm rút đi.
Vào năm 1280, Vô Học được Bắc Điều Thời Tông [Hojo Tokimune], quan nhiếp chính của chế độ tướng quân, mời đến Nhật Bản. Mùa xuân năm sau, khi Thời Tông đến viếng, Vô Học viết cho quan nhiếp chính một thông điệp ba chữ: “Chớ lo lắng.”
Khi Thời Tông yêu cầu giải thích, sư nói: “Vào lúc xuân hè tiếp nối, miền nam Nhật Bản sẽ có náo động, nhưng sẽ ổn định lại không lâu, vì vậy chớ lo lắng.”
Quả nhiên, vào chính thu, một lực lượng xâm lăng Mông Cổ tấn công phiá bắc nước Nhật, y như lời sư nói. Cũng đúng như sư tiên đoán, bọn xâm lược bị đánh dẹp, và thanh bình sớm trở lại.
(Giai Thoại Thiền)
259. ẨN CƯ
Thiền sư Đại Ngu đã sống một thời gian trong núi sâu ở vùng thôn quê phía bắc Kyoto. Sư viết bài kệ sau đây nói về chỗ sư ở:
Không còn phiền não thị thành,
Không còn tranh nhau phán quyết:
Mùa thu ta ngủ
Lá xuôi theo dòng,
Mùa xuân ta nghe
Chim hót trên cây.
Xuân đến nơi nhân giới
Với lòng tốt bao la;
Mỗi một đóa hoa nở
Là một vị Phật ra.
Tuyết còn vô ý thức
Tan chảy tất cả đi --
Vạn vật giương lông mày
Cùng nhau theo nhịp điệu
Tất cả như là một.
(Giai Thoại Thiền)
260. ĐẸP HƠN HOA
Mùa xuân năm nọ, nhà thơ bài cú lừng danh Ba Tiêu quyết định đi xem hoa ở một nơi nổi tiếng vì có cảnh đẹp. Dọc đường ông nghe nói về một cô gái nông dân nghèo nổi tiếng vì lòng hiếu thảo đối với cha mẹ. Vì hiếu kỳ, Ba Tiêu đi tìm cô gái. Khi gặp cô gái, Ba Tiêu đã cho cô tất cả số tiền ông mang theo để chi tiêu trong chuyến du hành. Rồi Ba Tiêu trở về nhà, không xem hoa gì cả.
Ba Tiêu nói, “Năm nay tôi thấy được một cái đẹp hơn hoa.”
(Giai Thoại Thiền)