Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

05. Gốc Sinh Tử

29/11/201115:17(Xem: 4241)
05. Gốc Sinh Tử
TRUYỆN CỔ PHẬT GIÁO
TRUYỆN THƠ - TẬP 3
Tâm Minh Ngô Tằng Giao
Diệu Phương
xuất bản 2004

(5)

GỐC SINH TỬ

Vầng dương vừa khuất non cao

Chim bay về tổ lao xao họp đoàn

Tiều phu hối hả về làng

Lắng im rừng núi, ngân vang chuông chùa

Bước chân theo cánh gió đưa

Rời căn lều cỏ thiền sư lên đường

Đến khu nhà cạnh bìa rừng

Thăm gia đình nọ đã từng quy y

Nhờ thầy hướng dẫn mọi bề

Vợ chồng quấn quýt cận kề thương nhau.

Sau tuần trà nước mở đầu

Thiền sư bèn thốt đôi câu tâm tình:

"Vợ chồng con kết duyên lành

Lâu nay quyết chí tu hành tốt thay

Tu thân, tích đức hàng ngày

Lứa đôi yên ấm, ta đây rất mừng!

Ngày mai ta sẽ lên đường

Phải đi giáo hóa ở phương xa rồi

Hôm nay dặn lại đôi lời

Hàng ngày niệm Phật, suốt đời đừng quên

Nhớ thân này chẳng vững bền

Một người bệnh nặng gần bên tử thần

Người kia cần phải tĩnh tâm

Dốc lòng hộ niệm mười phân chu toàn

Đọc kinh tiếp dẫn râm ran

Đến giờ phút cuối nhẹ nhàng tiễn đưa,

Đừng nên than khóc dây dưa

Làm người hấp hối tâm tư chập chờn

Luyến lưu, rối loạn, bất an

Vãng sinh cõi tịnh vô vàn khó khăn

Khó mà giải thoát bản thân

Những lời ta dặn phải cần khắc ghi".

Sáng hôm sau thầy ra đi

Vợ chồng đưa tiễn chia ly cuối làng.

Hai mùa thu lá úa vàng

Vợ chồng hoà thuận ngập tràn yêu thương

Cùng nhau bố thí thập phương

Sáng luôn niệm Phật, tối thường tụng kinh

Dốc lòng tạo chút phước lành

Xóm làng cảm mến lòng thành lứa đôi.

Một ngày chồng bị bệnh rồi

Thương hàn, đau nặng tới hồi nguy nan

Chạy thầy, chạy thuốc tràn lan

Thảy đều vô vọng chẳng làm gì hơn

Chồng bên cửa tử chập chờn

Vợ thời tuyệt vọng, nghĩ buồn tình xưa

Giờ đây rối loạn tâm tư

Quên lời dặn của thiền sư mất rồi

Thấy chồng mê mệt im hơi

Thương chồng, tủi phận, gục nơi bên chồng

Khóc than kể lể nỗi lòng

Chồng bèn mở mắt lặng trông thất thần

Đây lần cuối thấy người thân

Bên tai tiếng vợ vô ngần bi thương

Cảm tình ân ái lại vương

Mắt nhìn vợ quý hai hàng lệ rơi

Xuôi tay, nhắm mắt, lìa đời

Và rồi thần thức xuất nơi mắt người,

Vợ đang cúi xuống tận nơi

Mặt chồng gục khóc có rời xa đâu

Cho nên thần thức chui mau

Vào ngay mũi vợ thành sâu tức thì.

Sau khi chồng đã mất đi

Lễ tang chôn cất mọi bề êm xuôi

Cửa nhà hiu quạnh vắng người

Vợ ngồi cô độc buồn đời khóc than

Mũi kia đau nhức vô vàn

Sâu ngày mỗi lớn nhức càng thảm thê.

*

Thiền sư một bữa trở về

Ghé thăm đệ tử, chẳng hề hay tin

Đón thầy, vợ kể nỗi niềm

Ôn tồn thầy mới giảng liền cho nghe:

"Nín mau đừng khóc thương chi

Có sinh có tử lạ gì xưa nay

Bỏ đi thân khổ đau này

Như là quẳng gánh nặng ngay bên rừng

Đừng than khóc? Hãy vui mừng!

Nén trong lòng nỗi nhớ thương riêng mình

Tìm khuây trong cảnh tu hành

Nếu hoài vương vấn chút tình ái ân

Kiếp sau thời lại sẽ gần

Gặp nhau thêm nữa xoay vần mãi thôi

Trả vay, vay trả luân hồi

Oan gia kết chuỗi muôn đời chẳng ngưng!"

Vợ nghe xong hết đau thương

Tình cờ khịt mũi thấy văng ra ngoài

Một con sâu lớn và dài

Cơn đau trong mũi tức thời hết mau

Vợ đưa chân định giẫm sâu

Đạp sâu cho chết! Bấy lâu gây phiền!

Thiền sư lên tiếng ngăn liền:

"Sinh linh sát hại chớ nên bao giờ,

Ngoài ra con chẳng thể ngờ

Rằng con sâu đó chính là chồng con!"

*

Lạ lùng vợ mới hỏi luôn:

"Bạch thầy! Khi sống chồng con tu hành

Luôn niệm Phật, mãi làm lành

Tạo sao khi chết lại thành loài sâu?"

Thiền sư nghe nói lắc đầu:

"Bao lời ta dặn con đâu nhớ gì

Chồng con lúc sắp ra đi

Lãng quên chánh niệm cũng vì thương con

Vì dây luyến ái vẫn còn

Cho nên thần thức chập chờn lao đao

Nào đâu vượt được lên cao,

Chỉ thành sâu bọ chui vào mũi con

Công tu phút chốc chẳng còn

Phước theo dòng ái ân tuôn trôi rồi

Thoát sao khỏi kiếp luân hồi

Dây tình cột chặt nổi trôi xoay vòng."

Nói cùng sâu thầy mủi lòng:

"Con thường tinh tấn, có công tu hành

Lẽ ra được hưởng phước lành

Vãng sinh cực lạc hay sinh cõi trời

Chỉ vì luyến ái lứa đôi

Mà gây nghiệp chướng để rồi thành sâu!"

Sâu nghe, im lặng hồi lâu

Ăn năn, hổ thẹn, buồn rầu nằm co

Thiền sư bèn chú nguyện cho.

Nhờ khi còn sống chồng tu nhiều rồi

Sau khi quằn quại một hồi

Sâu kia tắt thở êm xuôi tốt lành

Sau này thần thức tái sinh

Thoát loài sâu bọ, vào nhanh cõi người.

Vợ kia hối hận nguyện lời

Dốc lòng tinh tấn sống đời chân tu

Theo lời dạy của thiền sư

Nhân gieo tốt đẹp đã đưa phước lành

Sau này cũng được vãng sinh

Vào nơi tịnh thổ an bình mãi thôi.

*

Ngẫm xem đời sống con người

Có đâu ngắn ngủi nhất thời mà thôi

Mở đầu nào phải trên nôi

Để rồi chấm dứt ngay nơi nấm mồ,

Lọt lòng từ lúc trẻ thơ

Đến khi nhắm mắt giã từ nhân sinh

Chỉ là một buổi bình minh

Chuyển qua đêm tối thực tình khác đâu

Chuỗi thời gian lặng trôi mau

Không đầu, không cuối, chẳng bao giờ ngừng.

(phỏng theo bản văn xuôi của TẮC PHƯỚC)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
19/01/2022(Xem: 7565)
Dân tộc Việt Nam học và hành theo giáo lý Phật thuyết trên dưới hai nghìn năm trước khi Pháp sư Huyền Trang quy Phật cũng trên sáu thế kỷ, tuy vậy cho đến nay chúng đệ tử Phật, xuất gia cũng như tại gia, biết đến công hạnh của Ngài rất ít, và cũng biết rất ít di sản Kinh Luận của Ngài cho Phật tử Việt nam học và hiểu giáo pháp của Đức Thế Tôn một cách chân chính để hành trì chân chính. Bản dịch Đại Đường Tây vực ký của Hòa Thượng Như Điển với sự đóng góp của Cư sĩ Nguyễn Minh Tiến bổ túc cho sự thiếu sót này. Từ những hiểu biết để thán phục, kính ngưỡng một Con Người vĩ đại, hãn hữu, trong lịch sử văn minh tiến bộ của nhân loại, một vị Cao Tăng thạc đức, với nghị lực phi thường, tín tâm bất hoại nơi giáo lý giải thoát, một thân đơn độc quyết vượt qua sa mạc nóng cháy mênh mông để tìm đến tận nguồn suối Thánh ngôn rồi thỉnh về cho dân tộc mình cùng thừa hưởng nguồn pháp lạc. Không chỉ cho dân tộc mình mà cho tất cả những ai mong cầu giải thoát chân chính.
04/01/2022(Xem: 8482)
Không hiểu sao mỗi khi nhớ về những sự kiện của năm 1963 lòng con bổng chùng lại, bồi hồi xúc động về quá khứ những năm đen tối xảy đến gia đình con và một niềm cảm xúc khó tả dâng lên...nhất là với giọng đọc của Thầy khi trình bày sơ lược tiểu sử Đức Ngài HT Thích Trí Quang ( một sưu tầm tài liệu tuyệt vời của Giảng Sư dựa trên “ Trí Quang tự truyện “ đã được đọc tại chùa Pháp Bảo ngày 12/11/2019 nhân buổi lễ tưởng niệm sự ra đi của bậc đại danh tăng HT Thích Trí Quang và khi online cho đến nay đã có hơn 45000 lượt xem). Và trước khi trình pháp lại những gì đã đươc nghe và đi sâu vào chi tiết bài giới thiệu Bộ Pháp Ảnh Lục cùng lời cáo bạch của chính Đức Ngài HT Thích Trí Quang về bộ sách này, kính trich đoạn vài dòng trong tiểu sử sơ lược của HT Thích Trí Quang do Thầy soạn thảo mà con tâm đắc nhất về;
04/01/2022(Xem: 7246)
Trên đất nước ta, rừng núi nào cũng có cọp, nhưng không phải vô cớ mà đâu đâu cũng truyền tụng CỌP KHÁNH HÒA, MA BÌNH THUẬN. Tỉnh Bình Thuận có nhiều ma hay không thì không rõ, nhưng tại tỉnh Khánh Hòa, xưa kia cọp rất nhiều. Điều đó, người xưa, nay đều có ghi chép lại. Trong sách Hoàng Việt Nhất Thống Dư Địa Chí (1) của Thượng Thư Bộ Binh Lê Quang Định soạn xong vào năm 1806 và dâng lên vua Gia Long (1802-1820), tổng cộng 10 quyển chép tay, trong đó quyển II, III và IV có tên là Phần Dịch Lộ, chép phần đường trạm, đường chính từ Kinh đô Huế đến các dinh trấn, gồm cả đường bộ lẫn đường thủy. Đoạn đường ghi chép về ĐƯỜNG TRẠM DINH BÌNH HÒA (2) phải qua 11 trạm dịch với đoạn đường bộ đo được 71.506 tầm (gần 132 km)
04/01/2022(Xem: 6142)
Ngoài tên “thường gọi” là Cọp, là Hổ, tiếng Hán Việt là Dần, cọp còn có tên là Khái, là Kễnh, Ba Cụt (cọp ba chân), Ba Ngoe (cọp ba móng), Ông Chằng hay Ông Kẹ, Ông Dài, Ông Thầy (cọp thành tinh). Dựa vào tiếng gầm của cọp, cọp còn có tên gọi là Hầm, là Hùm, dựa vào sắc màu của da là Gấm, là Mun ... Ở Nam Bộ cò gọi cọp là Ông Cả, vì sợ cọp quấy phá, lập miếu thờ, tôn cọp lên hàng Hương Cả là chức cao nhất trong Ban Hội Tề của làng xã Nam Bộ thời xưa. Cọp cũng được con người gọi lệch đi là Ông Ba Mươi. Con số ba mươi này có nhiều cách giải thích: - Cọp sống trung bình trong khoảng ba mươi năm. - Cọp đi ba mươi bước là quên hết mọi thù oán. - Xưa, triều đình đặt giải, ai giết được cọp thì được thưởng ba mươi đồng, một món tiền thưởng khá lớn hồi đó. - Tuy nhiên, cũng có thời, ai bắt, giết cọp phải bị phạt ba mươi roi, vì cho rằng cọp là tướng nhà Trời, sao dám xúc phạm (?). Ngày nay, cọp là loài vật quý hiếm, có trong sách Đỏ, ai giết, bắt loài thú này không những bị phạt tiền mà còn ở
30/12/2021(Xem: 7046)
Tối ngày 11/02 âm lịch (03/03/2012), vào lúc 10 giờ tối, lúc đó tôi niệm Phật ở dưới hai cái thất mà phía trên là phòng của Sư Ông. Khi khóa lễ vừa xong, bỗng nghe (thấy) tiếng của đầu gậy dọng xuống nền phát ra từ phòng của Sư Ông. Lúc đó tôi vội vàng chạy lên, vừa thấy tôi, Ông liền bảo: “Lấy cái đồng hồ để lên đầu giường cho Sư Ông và lấy cái bảng có bài Kệ Niệm Phật xuống” (trong phòng Sư Ông có treo cái bảng bài Kệ Niệm Phật). Khi lấy xuống Sư Ông liền chỉ vào hai câu: Niệm lực được tương tục, đúng nghĩa chấp trì danh, rồi Sư Ông liền chỉ vào mình mà ra hiệu, ý Sư Ông nói đã được đến đây, sau khi ngồi hồi lâu Sư Ông lên giường nghỉ tiếp.
25/12/2021(Xem: 5328)
Cảo San đường Tuệ Nguyên Đại Tông sư (고산당 혜원대종사, 杲山堂 慧元大宗師) sinh ngày 8 tháng 12 năm 1933 tại huyện Ulju, Ulsan, một thành phố nằm ở phía đông nam Hàn Quốc, giáp với biển Nhật Bản. Ngài vốn sinh trưởng trong tộc phả danh gia vọng tộc, phụ thân Họ Ngô (해주오씨, 海州吳氏), Haeju, Bắc Triều Tiên và tộc phả của mẫu thân họ Park (밀양박씨, 密陽朴氏), Miryang, Gyeongsangnam-do, Hàn Quốc. Năm lên 7 tuổi, Ngài được sự giáo huấn của người cha kính yêu tuyệt vời, cụ đã dạy các bộ sách Luận ngữ, Mạnh Tử, Thích Độ, Đại Học, Tứ Thư và học trường tiểu học phổ thông. Vào tháng 3 năm Ất Dậu (1945), khi được 13 tuổi, Bồ đề tâm khai phát để làm tiền đề cho Bát Nhã đơm bông, Ngài đảnh lễ Đại Thiền sư Đông San Tuệ Nhật (동산혜일대선사, 東山慧日大禪師, 1890-1965) cầu xin xuất gia tu học Phật pháp. Thật là “Đàm hoa nhất hiện” khi những sợi tóc não phiền rơi rụng theo từng nhát kéo đong đưa. Tháng 3 năm 1948, Ngài được Hòa thượng Bản sư truyền thụ giới Sa di tại Tổ đình Phạm Ngư Tự (범어사, 梵魚寺), Geumjeong-gu, Busan, Hàn Qu
23/12/2021(Xem: 4008)
Chánh Điện của một ngôi Chùa tại xứ Đức, cách đây hơn 40 năm về trước; nơi có ghi hai câu đối: "Viên thành đạo nghiệp Tây Âu quốc. Giác ngộ chúng sanh đạo lý truyền", bây giờ lại được trang hoàng thật trang nghiêm và rực rỡ với các loại hoa. Đặc biệt nhất vẫn là những chậu cây Trạng Nguyên nhỏ to đủ kiểu, nổi bật nhất vẫn là những chiếc lá đỏ phía trên phủ lên những chiếc lá xanh bên dưới. Ai đã có ý tưởng mang những cây Nhất Phẩm Hồng, có nguồn gốc ở miền Nam Mexico và Trung Mỹ vào đây? Và theo phong thủy, loại cây này mang đến sự thành công, đỗ đạt và may mắn.
10/12/2021(Xem: 8648)
Bản dịch này cũng đã đăng tải trong các số báo đặc san Pháp Bảo, từ số 2, tháng 5 năm 1982 và còn tiếp tục đăng tải cho đến nay. Loạt bài đăng trong báo sẽ được chấm dứt trong vài kỳ báo nữa, vì các phần sau tuy cần thiết đối với người muốn nghiên cứu, nhưng lại trở nên khô khan với người ít quan tâm tới sử liệu Phật Giáo. Đó là lý do quý vị chỉ tìm thấy bản dịch được đầy đủ chỉ có trong sách này. Trong khi dịch tác phẩm, cũng như trong khoảng thời gian còn tòng học tại Nhật Bản, chúng tôi tự nghĩ: không hiểu sao Phật giáo đã du nhập vảo Việt Nam từ thế kỷ thứ 2, thứ 3 mà mãi cho tới nay vẫn chưa có được những cuốn sách ghi đầy đủ các chi tiết như bộ “Các tông phái Phật Giáo Nhật Bản” mà quý vị đang có trong tay. Điều mong mỏi của chúng tôi là Phật Giáo Việt Nam trong tương lai cố sao tránh bớt vấp phải những thiếu sót tư liệu như trong quá khứ dài hơn 1500 năm lịch sử truyền thừa! Để có thể thực hiện được điều này, cần đòi hỏi giới Tăng Già phải đi tiên phong trong việc trước t
09/12/2021(Xem: 23073)
Cách đây vài ngày đọc trên một tờ báo tại Sydney , khi nói về chủng thể Omicron vừa phát tán và lây lan do xuất phát từ các nước Nam Phi , tôi chợt mỉm cười khi đọc được câu này " Chúng ta đã học từ nạn đại dịch một điều rằng : Đừng nên hy vọng một điều gì , vì chắc chắn điều mình hy vọng ấy sẽ chỉ là THẤT VỌNG " If there’s one thing COVID has taught us , it is to expect nothing, except disappointment . What it comes to that COVID really delivers
08/12/2021(Xem: 4667)
Già San Đường Trí Quán Đại Tông Sư, vị đại học giả, vị Luật sư, Thiền sư nổi tiếng, vị Tổng vụ trưởng xuất sắc trong việc quản lý các vấn đề hành chính Phật giáo. Ngài được ca tụng lảu thông Tam tạng giáo điển, lý sự viên dung. Già San Đường Trí Quán Đại Tông Sư (가산당 지관대종사, 伽山堂 智冠大宗師, 1932-2012) tục danh Lý Hải Bằng (이해붕, 李海鵬), theo tộc phả tên Chung Bằng (종붕, 鍾鵬), Tổng vụ Viện trưởng Thiền phái Tào Khê đời thứ 32, Phật giáo Hàn Quốc, hiệu Già Sơn đường Trí Quán Đại tông sư (가산당지관대종사, 伽山堂智冠大宗師), sinh ngày 14/6/1932 (05/11/Nhâm Thân), nguyên quán làng Cheonghae-myeon, huyện Gyeongju, tỉnh Gyeongsangbuk-do, Đại Hàn. Phụ thân của Ngài là cụ ông Lý Khuê Bạch (이규백, 李圭白) và Hiền mẫu của Ngài là cụ bà Kim Tiên Y (김선이, 金先伊). Gia đình truyền thống Phật giáo lâu đời, kính tin Tam bảo.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]