Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

22. Ấm Trà Phúc Đức

29/11/201115:17(Xem: 4350)
22. Ấm Trà Phúc Đức
TRUYỆN CỔ PHẬT GIÁO
TRUYỆN THƠ - TẬP 3
Tâm Minh Ngô Tằng Giao
Diệu Phương
xuất bản 2004

(22)

ẤM TRÀ PHÚC ĐỨC

Thưở xưa có vị tu hành

Thật là đức hạnh nổi danh vô cùng

Thầy tên là sư Chánh Thông

Lâu nay muốn kiếm trong vùng rừng thưa

Một nơi thuận tiện xây chùa

Giúp cho Phật tử chỗ tu dễ dàng.

Một hôm đầy ánh trăng vàng

Sau khi tắm suối, sư đang trở về

Băng ngang giữa cánh rừng khuya

Bỗng nghe vẳng tiếng ai kia kêu thầy,

Quay nhìn quanh quất đâu đây

Thấy ngay thấp thoáng dưới cây bóng hình

Người trông giống hồ ly tinh

Bước ra đảnh lễ cúi mình thưa ngay:

"Con xin phép hướng dẫn thầy

Tới nơi thích hợp để xây dựng chùa!"

Lời người lạ thoảng như ru

Sư nghe ưng thuận rất ư vui mừng

Cả hai đêm đó lên đường

Vượt đèo, lội suối, băng rừng, trèo non

Tới nơi thoả nguyện chờ mong

Ngọn đồi thơ mộng mênh mông vô cùng

Sư nhìn khoảnh đất rất mừng

Và rồi quyết định chọn vùng này ngay

Sẽ xây chùa tại chốn đây

Bõ công tìm kiếm bao ngày tháng qua.

Thời gian thấm thoắt trôi xa

Chùa nay hoàn tất thật là khang trang

Mậu Lâm Tự tỏa đạo vàng

Anh chàng chỉ lối dẫn đường thuở xưa

Giờ đây tìm đến thăm sư

Khẩn cầu xin ở lại tu nhiệt tình.

Dù trông giống hồ ly tinh

Sư nào câu nệ dáng hình, nhận ngay

Thâu làm đệ tử từ đây

Đặt tên Thủ Hạc ngày ngày kệ kinh

Chuyên tâm ra sức học hành

Lại chăm lo việc ở quanh trong chùa.

*

Tháng ngày qua tựa thoi đưa

Giờ đây sư Chánh Thông xưa già rồi

Một ngày sư cũng lìa đời

Trụ trì chùa cũ nhiều người lên thay

Để rồi lại đến một ngày

Tuổi già lần lượt rời ngay cõi trần,

Riêng Thủ Hạc vẫn yên phần

Vẫn luôn mạnh khoẻ, chuyên cần lo tu.

Đến đời hoà thượng Nguyệt Chu

Trụ trì thứ bảy của chùa Mậu Lâm

Trong chùa mọi việc chi cần

Một tay Thủ Hạc lãnh phần lo toan

Trung thành, chu đáo, đảm đang

Giúp luôn cả đám dân làng địa phương

Giúp thêm cả khách hành hương

Sức luôn cố gắng, tâm thường an vui.

*

Một năm lễ lớn tới rồi

Trên chùa chuẩn bị đón người hành hương

Tính ra số khách thập phương

Vài ngàn người sẽ tìm đường lên đây

Chùa lo mọi việc xong ngay

Chỉ riêng nước uống vào ngày mai thôi

Sao cho đủ khắp mọi người

Ấm trà thật lớn kiếm thời khó sao!

Sư Nguyệt Chu lo biết bao

Tới lui nghĩ ngợi, ra vào thở than

Chợt nghe Thủ Hạc trấn an:

"Con xin đi tới ngôi làng quen xa

Mượn về một chiếc ấm trà

Ấm này vĩ đại đủ pha ngàn người

Cách đây ngàn dặm mà thôi!"

Sư nghe mừng rỡ nhưng rồi lo âu:

"Xa ngàn dặm dù đi mau

Chỉ trong một tối kịp đâu quay về,

Dễ chi mượn được ấm kia

Ngày mai nước uống chắc gì có đây!"

Nghe xong Thủ Hạc thưa ngay:

"Con đi tức khắc, xin thầy yên tâm!"

Mang đôi giầy cỏ vào chân

Tức thời đệ tử biến luôn khỏi chùa.

Sáng sau hoà thượng Nguyệt Chu

Đang ngồi thiền định tĩnh tu giữa phòng

Chợt nghe rộn rã ngoài song

Biết ngay Thủ Hạc về trong chùa này

Sư nhìn ra thấy lạ thay

Ấm trà vĩ đại để ngay hiên ngoài

Sư kinh ngạc đến ngẩn người

Rồi ngài sung sướng thốt lời ngợi khen

Ấm trà được sử dụng liền

Đun sôi trà bốc hơi lên thơm lừng

Hương thơm thanh thoát lạ lùng

Vô cùng dễ chịu, vô cùng dịu êm

Uống vào sảng khoái vô biên

Bao người xin uống quả nhiên hài lòng,

Ấm như một suối nguồn trong

Rót trà đãi khách mãi tuôn chẳng ngừng

Mọi người ca tụng tưng bừng

Anh chàng Thủ Hạc vui mừng nói ngay:

"Người ta gọi ấm trà này

Là trà phúc đức xưa nay giúp người

Trong đây tám món tuyệt vời:

Bệnh thời biến mất. Sức thời tăng thêm,

Bao nhiêu lo sợ dứt liền,

Phát sinh trí tuệ. Nhân duyên tạo nhiều

Được người tôn trọng kính yêu,

Bao nhiêu tai nạn thảy đều tránh qua,

Và tăng tuổi thọ thêm ra

Ấm trà phúc đức quả là quý thay!"

*

Đã qua bao tháng cùng ngày

Anh chàng Thủ Hạc chùa này sống dai

Trụ trì chùa tới thứ mười

Anh chàng vẫn khoẻ, thân người trẻ trung

Lại thêm tráng kiện vô cùng

Bà con Phật tử đều cung kính chàng.

Một hôm nắng đẹp hanh vàng

Thênh thang nắng rọi, rộn ràng chim ca

Anh chàng Thủ Hạc nhà ta

Ra ngồi tắm nắng bên hoa sân chùa

Thả hồn theo gió thơm đưa

Nhẹ trôi vào giấc ngủ trưa ngon lành

Để rồi bỗng hiện nguyên hình

Hồ ly là cáo, thân hình xấu xa,

Bất ngờ có khách bước ra

Nhìn qua thấy chú cáo già ngủ say

Vội vàng hoảng hốt kêu ngay:

"Hồ ly xuất hiện chốn này! Kinh sao!"

Chàng Thủ Hạc nghe ồn ào

Giật mình tỉnh giấc kịp đâu thu hình

Đông người xúm lại thình lình

Chanh chua xỉa xói, bất bình thét la:

"Bây giờ lộ mặt thật ra

Ai ngờ mi lại chính là hồ ly

Tưởng rằng núp bóng từ bi

Tu hành học Phật xóa đi nghiệp mình

Hồ ly vẫn hiện nguyên hình

Súc sinh lại vẫn súc sinh khác gì

Cút mau khỏi chốn này đi

Xác thì xấu xí, thân thì tanh hôi!"

*

Nghe xôn xao vọng tiếng người

Trụ trì vội bước ra nơi sân chùa

Anh chàng Thủ Hạc kính thưa:

"Thầy và đồng đạo vốn từ lâu nay

Hết lòng chiếu cố thân này

Lòng tôi cảm kích bao ngày khó quên

Nay xin báo đáp ơn trên

Đem thần thông diễn ngay liền quản đâu

Chuyện xưa tích cũ đã lâu

Rừng kia xin hãy quay đầu nhìn xem!"

Trong khu rừng rậm kế bên

Hiện ra cảnh giới trang nghiêm lạ lùng

Phật Đà thuyết pháp giữa rừng

Bao nhiêu đệ tử chập chùng vây quanh

Mọi người kinh ngạc thật tình

Cùng nhau quỳ lạy lòng thành kính dâng

Chợt nghe Thủ Hạc nói rằng:

"Tôi xin từ giã đạo tràng giờ đây

Từ biệt chùa, từ biệt thầy

Ấm trà phúc đức dâng ngay biếu chùa

Để làm kỷ niệm nghĩa xưa!"

Nói xong Thủ Hạc cũng vừa lao đi

Thân như ánh chớp khác chi

Nhắm khu rừng thẳm hồ ly biến rồi.

*

Tuy mang xác cầm thú thôi

Nhưng mà tư tưởng tuyệt vời cao xa

Từ bi, hỷ xả, vị tha

Súc sinh đâu nữa, ngẫm ra là người!

Là người sống ở trên đời

Tuy hình hài vậy, tâm thời xấu xa

Than ôi ngẫm kỹ chẳng qua

Chỉ là dã thú, còn là người đâu!

(phỏng theo bản văn xuôi của PHẠM NGỌC KHUÊ)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
19/01/2022(Xem: 7565)
Dân tộc Việt Nam học và hành theo giáo lý Phật thuyết trên dưới hai nghìn năm trước khi Pháp sư Huyền Trang quy Phật cũng trên sáu thế kỷ, tuy vậy cho đến nay chúng đệ tử Phật, xuất gia cũng như tại gia, biết đến công hạnh của Ngài rất ít, và cũng biết rất ít di sản Kinh Luận của Ngài cho Phật tử Việt nam học và hiểu giáo pháp của Đức Thế Tôn một cách chân chính để hành trì chân chính. Bản dịch Đại Đường Tây vực ký của Hòa Thượng Như Điển với sự đóng góp của Cư sĩ Nguyễn Minh Tiến bổ túc cho sự thiếu sót này. Từ những hiểu biết để thán phục, kính ngưỡng một Con Người vĩ đại, hãn hữu, trong lịch sử văn minh tiến bộ của nhân loại, một vị Cao Tăng thạc đức, với nghị lực phi thường, tín tâm bất hoại nơi giáo lý giải thoát, một thân đơn độc quyết vượt qua sa mạc nóng cháy mênh mông để tìm đến tận nguồn suối Thánh ngôn rồi thỉnh về cho dân tộc mình cùng thừa hưởng nguồn pháp lạc. Không chỉ cho dân tộc mình mà cho tất cả những ai mong cầu giải thoát chân chính.
04/01/2022(Xem: 8482)
Không hiểu sao mỗi khi nhớ về những sự kiện của năm 1963 lòng con bổng chùng lại, bồi hồi xúc động về quá khứ những năm đen tối xảy đến gia đình con và một niềm cảm xúc khó tả dâng lên...nhất là với giọng đọc của Thầy khi trình bày sơ lược tiểu sử Đức Ngài HT Thích Trí Quang ( một sưu tầm tài liệu tuyệt vời của Giảng Sư dựa trên “ Trí Quang tự truyện “ đã được đọc tại chùa Pháp Bảo ngày 12/11/2019 nhân buổi lễ tưởng niệm sự ra đi của bậc đại danh tăng HT Thích Trí Quang và khi online cho đến nay đã có hơn 45000 lượt xem). Và trước khi trình pháp lại những gì đã đươc nghe và đi sâu vào chi tiết bài giới thiệu Bộ Pháp Ảnh Lục cùng lời cáo bạch của chính Đức Ngài HT Thích Trí Quang về bộ sách này, kính trich đoạn vài dòng trong tiểu sử sơ lược của HT Thích Trí Quang do Thầy soạn thảo mà con tâm đắc nhất về;
04/01/2022(Xem: 7246)
Trên đất nước ta, rừng núi nào cũng có cọp, nhưng không phải vô cớ mà đâu đâu cũng truyền tụng CỌP KHÁNH HÒA, MA BÌNH THUẬN. Tỉnh Bình Thuận có nhiều ma hay không thì không rõ, nhưng tại tỉnh Khánh Hòa, xưa kia cọp rất nhiều. Điều đó, người xưa, nay đều có ghi chép lại. Trong sách Hoàng Việt Nhất Thống Dư Địa Chí (1) của Thượng Thư Bộ Binh Lê Quang Định soạn xong vào năm 1806 và dâng lên vua Gia Long (1802-1820), tổng cộng 10 quyển chép tay, trong đó quyển II, III và IV có tên là Phần Dịch Lộ, chép phần đường trạm, đường chính từ Kinh đô Huế đến các dinh trấn, gồm cả đường bộ lẫn đường thủy. Đoạn đường ghi chép về ĐƯỜNG TRẠM DINH BÌNH HÒA (2) phải qua 11 trạm dịch với đoạn đường bộ đo được 71.506 tầm (gần 132 km)
04/01/2022(Xem: 6141)
Ngoài tên “thường gọi” là Cọp, là Hổ, tiếng Hán Việt là Dần, cọp còn có tên là Khái, là Kễnh, Ba Cụt (cọp ba chân), Ba Ngoe (cọp ba móng), Ông Chằng hay Ông Kẹ, Ông Dài, Ông Thầy (cọp thành tinh). Dựa vào tiếng gầm của cọp, cọp còn có tên gọi là Hầm, là Hùm, dựa vào sắc màu của da là Gấm, là Mun ... Ở Nam Bộ cò gọi cọp là Ông Cả, vì sợ cọp quấy phá, lập miếu thờ, tôn cọp lên hàng Hương Cả là chức cao nhất trong Ban Hội Tề của làng xã Nam Bộ thời xưa. Cọp cũng được con người gọi lệch đi là Ông Ba Mươi. Con số ba mươi này có nhiều cách giải thích: - Cọp sống trung bình trong khoảng ba mươi năm. - Cọp đi ba mươi bước là quên hết mọi thù oán. - Xưa, triều đình đặt giải, ai giết được cọp thì được thưởng ba mươi đồng, một món tiền thưởng khá lớn hồi đó. - Tuy nhiên, cũng có thời, ai bắt, giết cọp phải bị phạt ba mươi roi, vì cho rằng cọp là tướng nhà Trời, sao dám xúc phạm (?). Ngày nay, cọp là loài vật quý hiếm, có trong sách Đỏ, ai giết, bắt loài thú này không những bị phạt tiền mà còn ở
30/12/2021(Xem: 7046)
Tối ngày 11/02 âm lịch (03/03/2012), vào lúc 10 giờ tối, lúc đó tôi niệm Phật ở dưới hai cái thất mà phía trên là phòng của Sư Ông. Khi khóa lễ vừa xong, bỗng nghe (thấy) tiếng của đầu gậy dọng xuống nền phát ra từ phòng của Sư Ông. Lúc đó tôi vội vàng chạy lên, vừa thấy tôi, Ông liền bảo: “Lấy cái đồng hồ để lên đầu giường cho Sư Ông và lấy cái bảng có bài Kệ Niệm Phật xuống” (trong phòng Sư Ông có treo cái bảng bài Kệ Niệm Phật). Khi lấy xuống Sư Ông liền chỉ vào hai câu: Niệm lực được tương tục, đúng nghĩa chấp trì danh, rồi Sư Ông liền chỉ vào mình mà ra hiệu, ý Sư Ông nói đã được đến đây, sau khi ngồi hồi lâu Sư Ông lên giường nghỉ tiếp.
25/12/2021(Xem: 5328)
Cảo San đường Tuệ Nguyên Đại Tông sư (고산당 혜원대종사, 杲山堂 慧元大宗師) sinh ngày 8 tháng 12 năm 1933 tại huyện Ulju, Ulsan, một thành phố nằm ở phía đông nam Hàn Quốc, giáp với biển Nhật Bản. Ngài vốn sinh trưởng trong tộc phả danh gia vọng tộc, phụ thân Họ Ngô (해주오씨, 海州吳氏), Haeju, Bắc Triều Tiên và tộc phả của mẫu thân họ Park (밀양박씨, 密陽朴氏), Miryang, Gyeongsangnam-do, Hàn Quốc. Năm lên 7 tuổi, Ngài được sự giáo huấn của người cha kính yêu tuyệt vời, cụ đã dạy các bộ sách Luận ngữ, Mạnh Tử, Thích Độ, Đại Học, Tứ Thư và học trường tiểu học phổ thông. Vào tháng 3 năm Ất Dậu (1945), khi được 13 tuổi, Bồ đề tâm khai phát để làm tiền đề cho Bát Nhã đơm bông, Ngài đảnh lễ Đại Thiền sư Đông San Tuệ Nhật (동산혜일대선사, 東山慧日大禪師, 1890-1965) cầu xin xuất gia tu học Phật pháp. Thật là “Đàm hoa nhất hiện” khi những sợi tóc não phiền rơi rụng theo từng nhát kéo đong đưa. Tháng 3 năm 1948, Ngài được Hòa thượng Bản sư truyền thụ giới Sa di tại Tổ đình Phạm Ngư Tự (범어사, 梵魚寺), Geumjeong-gu, Busan, Hàn Qu
23/12/2021(Xem: 4008)
Chánh Điện của một ngôi Chùa tại xứ Đức, cách đây hơn 40 năm về trước; nơi có ghi hai câu đối: "Viên thành đạo nghiệp Tây Âu quốc. Giác ngộ chúng sanh đạo lý truyền", bây giờ lại được trang hoàng thật trang nghiêm và rực rỡ với các loại hoa. Đặc biệt nhất vẫn là những chậu cây Trạng Nguyên nhỏ to đủ kiểu, nổi bật nhất vẫn là những chiếc lá đỏ phía trên phủ lên những chiếc lá xanh bên dưới. Ai đã có ý tưởng mang những cây Nhất Phẩm Hồng, có nguồn gốc ở miền Nam Mexico và Trung Mỹ vào đây? Và theo phong thủy, loại cây này mang đến sự thành công, đỗ đạt và may mắn.
10/12/2021(Xem: 8648)
Bản dịch này cũng đã đăng tải trong các số báo đặc san Pháp Bảo, từ số 2, tháng 5 năm 1982 và còn tiếp tục đăng tải cho đến nay. Loạt bài đăng trong báo sẽ được chấm dứt trong vài kỳ báo nữa, vì các phần sau tuy cần thiết đối với người muốn nghiên cứu, nhưng lại trở nên khô khan với người ít quan tâm tới sử liệu Phật Giáo. Đó là lý do quý vị chỉ tìm thấy bản dịch được đầy đủ chỉ có trong sách này. Trong khi dịch tác phẩm, cũng như trong khoảng thời gian còn tòng học tại Nhật Bản, chúng tôi tự nghĩ: không hiểu sao Phật giáo đã du nhập vảo Việt Nam từ thế kỷ thứ 2, thứ 3 mà mãi cho tới nay vẫn chưa có được những cuốn sách ghi đầy đủ các chi tiết như bộ “Các tông phái Phật Giáo Nhật Bản” mà quý vị đang có trong tay. Điều mong mỏi của chúng tôi là Phật Giáo Việt Nam trong tương lai cố sao tránh bớt vấp phải những thiếu sót tư liệu như trong quá khứ dài hơn 1500 năm lịch sử truyền thừa! Để có thể thực hiện được điều này, cần đòi hỏi giới Tăng Già phải đi tiên phong trong việc trước t
09/12/2021(Xem: 23073)
Cách đây vài ngày đọc trên một tờ báo tại Sydney , khi nói về chủng thể Omicron vừa phát tán và lây lan do xuất phát từ các nước Nam Phi , tôi chợt mỉm cười khi đọc được câu này " Chúng ta đã học từ nạn đại dịch một điều rằng : Đừng nên hy vọng một điều gì , vì chắc chắn điều mình hy vọng ấy sẽ chỉ là THẤT VỌNG " If there’s one thing COVID has taught us , it is to expect nothing, except disappointment . What it comes to that COVID really delivers
08/12/2021(Xem: 4667)
Già San Đường Trí Quán Đại Tông Sư, vị đại học giả, vị Luật sư, Thiền sư nổi tiếng, vị Tổng vụ trưởng xuất sắc trong việc quản lý các vấn đề hành chính Phật giáo. Ngài được ca tụng lảu thông Tam tạng giáo điển, lý sự viên dung. Già San Đường Trí Quán Đại Tông Sư (가산당 지관대종사, 伽山堂 智冠大宗師, 1932-2012) tục danh Lý Hải Bằng (이해붕, 李海鵬), theo tộc phả tên Chung Bằng (종붕, 鍾鵬), Tổng vụ Viện trưởng Thiền phái Tào Khê đời thứ 32, Phật giáo Hàn Quốc, hiệu Già Sơn đường Trí Quán Đại tông sư (가산당지관대종사, 伽山堂智冠大宗師), sinh ngày 14/6/1932 (05/11/Nhâm Thân), nguyên quán làng Cheonghae-myeon, huyện Gyeongju, tỉnh Gyeongsangbuk-do, Đại Hàn. Phụ thân của Ngài là cụ ông Lý Khuê Bạch (이규백, 李圭白) và Hiền mẫu của Ngài là cụ bà Kim Tiên Y (김선이, 金先伊). Gia đình truyền thống Phật giáo lâu đời, kính tin Tam bảo.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]