Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

23. Dứt Bỏ Ảo Tình

29/11/201115:17(Xem: 4322)
23. Dứt Bỏ Ảo Tình
TRUYỆN CỔ PHẬT GIÁO
TRUYỆN THƠ - TẬP 2
Tâm Minh Ngô Tằng Giao
Diệu Phương tái bản 2002

(23)

Dứt Bỏ Ảo Tình

Một thời Đức Phật Thích Ca

Ở thành Xá Vệ, nhà nhà an vui,

Ngài đi giáo hóa khắp nơi

Lời vàng thuyết pháp giúp đời thiết tha.

*

Có người ngoại đạo phương xa

Vì nghe danh Phật tìm qua gặp Ngài

Quản chi vất vả đường dài

Mong nghe Ngài dạy những lời gấm hoa.

*

Nhiều ngày vất vả trôi qua

Cuối cùng người khách phương xa tới thành

Ruộng đồng Xá Vệ tươi xanh

Khách dừng chân nghỉ, nhìn quanh ngắm trời

Ruộng bên khách thấy hai người

Một già, một trẻ cuốc nơi ven đồng.

*

Chợt nghe tiếng thét hãi hùng

Chàng trai gục xuống vũng bùn mê man

Lão ông vứt cuốc chạy sang

Mới hay rắn độc trong hang cắn người

Chàng trai đã chết mất rồi

Lão ông buồn thoáng, xong thời thản nhiên

Trở về cuốc đất lại liền

Khách xa thấy vậy ngạc nhiên trong lòng

Tới nơi thăm hỏi lão ông

Biết ra người chết là con trai đầu.

"Sao không thấy cụ buồn rầu

Chẳng hề đau xót! Nỡ đâu lạnh lùng!"

Khách xa thắc mắc hỏi cùng,

Ôn tồn khách được lão ông trả lời:

*

"Đã sinh ra ở trên đời

Sống rồi lại chết. Ai người thoát đây?

Hãy gieo nhân tốt kiếp này

Trái lành, quả ngọt hái đầy kiếp sau

Ích chi phiền não thương đau?"

Lão ông nhắn khách nếu vào thành trong

Vui lòng ghé đến nhà ông

Nhắn tin bà lão rằng con chết rồi:

"Cơm trưa mang một phần thôi

Phần kia để lại cho người nhà ăn!"

Khách ra đi, nghĩ băn khoăn:

"Mạng con sao chẳng quý bằng cơm canh!"

*

Khách lòng buồn bã vào thành

Theo lời chỉ dẫn tìm nhanh đến nhà

Nhắn tin con chết cho Bà

Bà nghe, khuôn mặt thoáng qua chút buồn

Rồi bình thản nói: "Cám ơn!"

Khách nghe sửng sốt hỏi luôn lão bà:

"Tại sao bà chẳng xót xa?"

Ôn tồn bà nói: "Mẹ cha khác nào

Chủ nhà trọ, đón khách vào

Khách là con cái, chiều nào dừng chân

Qua đêm ngủ đỡ nhọc nhằn

Để rồi mai sáng gói khăn lên đường

Chủ nhà trọ dù nhớ thương

Chẳng nên cứ mãi vấn vương muộn sầu

Chính do nghiệp báo từ lâu

Mà con cái thác sinh vào mẹ cha

Đến khi mãn nghiệp lại ra

Chết rồi ích lợi chi mà khóc thương!"

*

Vừa khi chị gái ngoài vườn

Vào nghe tin dữ, chỉ vương nét buồn

Nói rằng: "Sống chết lẽ thường

Khi không còn sống, xót thương ích gì!

Chị em nào có khác chi

Những cây gỗ ở rừng kia đóng bè

Thả vào dòng nước xuôi đi

Sông hồ phẳng lặng bè thì êm trôi

Nếu mà bão táp tơi bời

Vỡ bè, cây ghép tức thời lìa tan

Cuốn theo sóng nước thênh thang

Mỗi người mỗi ngả kết đoàn nữa đâu!

Nhân duyên kiếp trước hợp nhau

Kiếp này chung cửa sinh vào mà thôi!

Con người tuổi thọ ngắn dài

Tùy theo nghiệp báo. Chớ hoài khổ đau!"

*

Vợ chàng trai phía bếp sau

Chạy lên rõ chuyện, cúi đầu khẽ than:

"Chồng tôi thôi đã lìa trần!"

Thế rồi chẳng thấy nằm lăn khóc gào

Khách kinh ngạc biết là bao

Hỏi thăm sao Vợ nỡ nào thờ ơ.

"Chồng tôi đã chết" Vợ thưa

"Dù cho gào khóc cũng thừa mà thôi

Vợ chồng đạo nghĩa ở đời

Khác chi một cặp chim ngoài rừng xanh

Đêm về cùng ngủ một cành

Sáng ra tung cánh bay quanh kiếm mồi

Có duyên trở lại cặp đôi

Chẳng may gặp nạn tách rời còn đâu!

Vợ chồng số mạng khác nhau

Cớ sao mua thảm chuốc sầu thân ta!"

*

Khách nghe xong lặng người ra

Tiếc công lặn lội tìm qua xứ này

Nhân tình thế thái buồn thay

Gia đình cái tốt cái hay chẳng còn,

Khách kia lòng dạ héo hon

Muốn quay về nước nhưng còn phân vân:

"Chỉ riêng gặp mấy nông dân

Mà ta phê phán có phần sai chăng?"

Đã qua đây hãy tìm thăm

Vào ra mắt Phật, điều hằng thiết tha.

*

Vườn Kỳ Viên cũng chẳng xa

Đường vào tịnh xá lá hoa phô đầy

Đón chào khách lạ ghé đây,

Khách vào lễ Phật, giãi bày tâm can

Buồn gia đình bác nông dân

Làm điều trái với thế nhân thường tình

Mỉm cười Phật dạy: "Chúng sinh

Mỗi khi mất mát người mình thương yêu

Thường hay than khóc đủ điều

Đó là 'nhân tính' nói theo tình đời

Nhưng về 'chân lý' cao vời

Có chi đáng trách nơi người nông dân

Gia đình này chẳng lỗi lầm

Họ hay rõ được 'sắc thân' vô thường

Dù cho có tiếc có thương

Làm sao nắm giữ. Vấn vương làm gì

Dù phàm hay thánh khác chi

Ai mà tránh khỏi chết đi một ngày

Cuộc đời sống chết kề ngay

Là hai đầu mối vần xoay chẳng ngừng

Tiếp nhau luân chuyển khôn cùng

Ai mà hiểu vậy đáng mừng lắm thay

Thế là giải thoát được ngay

Ảo tình dứt bỏ, thân này sống vui!

*

Khách nghe lời Phật dạy rồi

Đột nhiên tỉnh ngộ, quỳ nơi Phật Đài

Xin làm đệ tử của Ngài

Ở luôn học đạo cuộc đời thơm hương!

(phỏng theo bản văn xuôi của Phạm Ngọc Khuê)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/10/2014(Xem: 4773)
Hai kẻ thù đã lâu đời, hai chàng trai trẻ nhất thuộc hai dòng tộc võ sĩ đạo lâm chiến, đang rình rập nhau trong vùng hẻm núi dưới mé sông trong lúc bà con dòng họ đôi bên đang chém giết lẫn nhau trên phía đồng bằng. Mối hận thù nẩy sinh giữa hai chàng sâu đậm đến độ như muốn lộn mửa, và khi trông thấy nhau, mỗi chàng đều nguyện cầu: “Lạy Trời nếu con phải chết, xin cho con gây ra tử thương cho kẻ oán thù trước khi con lìa đời.”
18/10/2014(Xem: 43872)
Uống trà là một nét đẹp văn hóa truyền thống của Á Đông theo phương châm“Bình minh nhất trản trà". Cách đây hàng ngàn năm, con người đã biết đến trà như một loại nước uống mang lại sự sảng khoái, thanh khiết cho tinh thần, là cách để khai tâm mở trí. Người ta xem chén trà là đầu câu chuyện, là gợi mở tâm linh, là giao thoa văn hóa và kết nối lòng người.
10/10/2014(Xem: 4438)
Từ lâu, người ta tin rằng có một cái “bản ngã” thường hằng, bất biến, tồn tại độc lập trong vạn pháp. Trước sự nhầm lẫn tai hại đó, Phật Thích Ca bèn nói thuyết “Vô ngã” để chúng sinh phá chấp. “Vô ngã” không phải không có gì hết mà là không có tự tánh, không có tự thể riêng biệt. Đây là một trong ba Pháp ấn trong hệ thống giáo lý của Phật giáo (hai pháp ấn kia là Khổ và Vô thường). Gọi là Pháp ấn có nghĩa là trong tám mươi bốn ngàn pháp môn của đạo Phật nếu có pháp môn nào không có một trong ba khái niệm Khổ, Vô thường và Vô ngã thì không phải giáo lý đạo Phật.
03/10/2014(Xem: 4382)
Học sinh thường cho rằng, các thầy cô chỉ nhớ tên học sinh giỏi, học sinh đẹp hoặc hoạt động hiệu đoàn... Cho nên mỗi lần nếu tôi gặp lại một em học sinh không có gì xuất sắc ngày xưa mà tôi còn nhớ tên, thì đó là một niềm vui to lớn của em là được thầy cô còn nhớ mặt và nhớ tên của mình. Sau khi cuộc chiến lan tràn trên quê hương thầy trò phân tán, tôi đi cùng nam cực bắc, đi xa nửa trái địa cầu, rải rác khắp nơi, tôi vẫn gặp lại những em học sinh Đồng Khánh cũ. Và nhờ cố gắng nhớ mặt, nhớ tên các em, nên hầu như ở đâu tôi cũng gieo được chút niềm vui cho những người đang phập phồng chờ được gọi đích danh sau một câu mở đầu công thức: „Cô còn nhớ em không?“. Những con người ấy, những học sinh Đồng Khánh tha phương - xa trường, xa thầy bạn cũ đã xưa rất xưa, mà chính bản thân khi soi gương cũng không còn bắt được hình bóng mình ngày ấy..., bất giác còn được gọi tên, còn được nhớ, còn được nhắc nhở đến bao kỷ niệm của một thời. Ôi! Vui biết bao nhiêu, ấm áp ngọt ngào biết bao nhiêu
02/10/2014(Xem: 4291)
Ra đến bến xe trời hãy còn khuya khoắt, trông cảnh nhộn nhịp ì xèo rộn lên từ những gian hàng ăn uống ở một góc gần bên, và tiếng nói cười lăng xăng của hành khách đi lại lẫn với tiếng những người bán hàng rong mời mọc. Nhìn sang quầy bán vé bây giờ không giống như những ngày tháng sau năm 1975, bề mặt thoáng mát rộng rãi trang trí bởi những bảng quảng cáo, những hoa văn sắc màu, những hàng ghế để khách ngồi chờ trông lịch sự. Khách mua vé rất nhanh khỏe hơn xưa, không còn cảnh chen lấn xếp hàng cả buổi trời như trước đây, lại có thêm nhiều loại xe phục vụ trên các tuyến, việc nầy còn tùy thuộc vào túi tiền của hành khách, ai có tiền nhiều thì đi loại xe chất lượng cao, còn ai ít tiền thì đi loại xe bình dân hơn. Nói vậy chứ còn khá hơn trước Đây, bởi ba chiếc xe car cũ kỹ hoặc xe chạy bằng than đá trên những tuyến Miền Đông, Miền Tây vào những năm 1975 - 1990.
24/09/2014(Xem: 6405)
Xưa có một người quyết tâm học đạo, theo một vị thiền sư sống trong một cái cốc nhỏ, sống đạm bạc, quyết chí tu hành. Một này kia, có công việc, vị thiền sư phải đi xa, dặn đệ tử ở lại phải lo chăm chỉ tu hành, luôn luôn giữ lối sống đạm bạc và tâm hồn thanh tịnh. Người đệ tử này chỉ có một chiếc khố che thân. Đêm tới khi ngủ, máng khố trên vách, thường bị chuột chui ra cắn rách, phải xin bá tánh chút vải thừa thay khố nhiều lần.
03/09/2014(Xem: 4702)
Lúc đó tôi được 13 tuổi. Trước đó một năm gia đình tôi đã chuyển từ Bắc Florida đến miền Nam California. Tôi dễ hận thù khi vừa đến tuổi vị thành niên. Tôi rất nóng nảy và hay cãi lại đối với bất cứ chuyện gì dù nhỏ mà ba mẹ đề cập tới, đặc biệt là nếu nó liên quan đến tôi. Cũng giống như nhiều đứa trẻ lứa tuổi thiếu niên, tôi khó chấp nhận bất cứ điều gì đi ngược lại với quan điểm của mình về thế giới chung quanh. Một đứa bé “thông minh không cần dạy bảo”. Tôi phản đối bất cứ biểu lộ nào của tình thương. Thật sự, tôi dễ giận dữ khi đề cập đến cái từ “thương yêu”.
26/08/2014(Xem: 4108)
Ở ven bờ bể Mễ Tây Cơ, có một làng nhỏ chuyên sống nghề đánh cá, một chiếc thuyền con lướt sóng nhẹ vào bờ, đem về vài con cá khá to. Một ông khách Mỹ đứng trên bờ, khen ngợi nghề đánh cá tài giỏi của anh chàng Mễ Tây Cơ và hỏi anh ta mất bao nhiêu thì giờ mới được chừng đó cá. _ “ Không lâu lắm đâu !” anh Mễ Tây Cơ trả lời.
17/08/2014(Xem: 25431)
Đại Sư tên là Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sinh ra ngài nhằm giờ tý, ngày mùng tám tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12. Khi ấy, hào quang từ nhà ngài chiếu sáng lên không trung, mùi hương lạ tỏa lan khắp nhà. Đến tảng sáng, có hai vị tăng lạ mặt đến thăm, bảo cha ngài rằng: “Khuya nay ông vừa sinh quý tử, chúng tôi đến đây là để đặt tên cho cháu bé. Ông nên đặt trước là chữ Huệ, sau là chữ Năng.”
17/08/2014(Xem: 24246)
Nhân quả báo ứng là một tập truyện của Trung Quốc, có vẽ tranh minh họa rất sinh động. Tập truyện này trước do ngài Văn Xương Đế Quân đời nhà Tấn sưu tập những truyện nói về nhân quả và sự báo ứng qua nhiều triều đại ở Trung Quốc.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]