Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

04. Bán Nghèo

29/11/201115:17(Xem: 4034)
04. Bán Nghèo
TRUYỆN CỔ PHẬT GIÁO
TRUYỆN THƠ - TẬP 3
Tâm Minh Ngô Tằng Giao
Diệu Phương
xuất bản 2004

(4)

BÁN NGHÈO

Ở bên Ấn Độ thời xưa

Có ông trưởng giả rất ư là giàu

Nhưng mà keo kiệt hàng đầu

Cho vay nặng lãi, nào đâu thương người,

Tính tình hung ác nhất đời

Ai không trả nổi nợ thời khổ thân

Ông sai ngay đám gia nhân

Tới nơi đánh đập bạo tàn chẳng tha.

Ngay người giúp việc trong nhà

Thời ông cũng xử thật là tệ thay

Có bà lão bộc nhà này

Việc làm quần quật luôn tay sớm chiều

Mỗi khi làm hỏng ít nhiều

Thời ông đánh mắng đủ điều chẳng nương,

Áo quần rách rưới tang thương

Cháo cơm thiếu thốn thất thường liên miên

Tuổi già, sức yếu, phận hèn

Lão bà tủi nhục buồn phiền than thân.

Một hôm bà lão dừng chân

Mang bình múc nước ngay gần mé sông

Đọa đày, đau khổ chất chồng

Khiến bà rơi lệ trong lòng nát tan

Muốn lìa ngay cõi nhân gian

Nhảy sông tự vận giải oan kiếp này.

Chợt đâu có một ông thầy

Đến bên, bà cũng chẳng hay biết gì

Thấy bà than khóc tỉ tê

Thầy tu thương cảm kiếm bề hỏi han

Bà liền kể lể than van

Phận mình nghèo khó gian nan đủ điều.

Thầy tu: "Tội nghiệp bà nhiều

Sao không bán quách cái nghèo đó đi

Lâu nay ôm giữ làm chi!"

Ngạc nhiên bà lão tức thì hỏi ngay:

"Sao thầy nói lạ lùng thay

Cái nghèo khốn khổ thế này ai mua?"

Thầy tu: "Tôi chẳng nói đùa!"

Thấy thầy chân thật, hiền từ, đáng tin

Bà già tuy rất ngạc nhiên

Cũng lên tiếng hỏi thăm liền quản chi:

"Thầy ơi! Thầy có kế gì

Giúp tôi bán cái nghèo đi cho rồi

Ơn thầy tôi nhớ suốt đời!"

Thầy tu: "Nếu vậy thì tôi bảo gì

Bà làm cho đúng từng ly

Mới mong bán cái nghèo đi dễ dàng,

Dòng sông kia gợn sóng vàng

Bà nên xuống tắm kỹ càng rồi lên

Sạch thân, trút hết ưu phiền

Tránh xa bệnh tật lại thêm yêu đời!"

*

Bà già vội vã vâng lời

Xuống sông tắm rửa, lên rồi thưa ngay:

"Thầy ơi làm cách nào đây

Để mà bán cái nghèo này êm xuôi?"

Thầy tu: "Bố thí cho người!

Khi tay bố thí tâm thời hết tham

Tham lam, keo kiệt là nhân

Gây ra nghèo khổ cơ hàn đời nay,

Bà tham nhiều kiếp trước đây

Kiếp này quả báo nên bây giờ nghèo!"

Bà già kinh ngạc khẽ kêu:

"Trời ơi! Tôi hiện tiêu điều xác xơ

Của đâu bố thí bây giờ,

Cái bình là của chủ đưa sáng này

Sai mang múc nước về ngay

Nếu cần bố thí tôi đây tiếc gì

Biếu luôn bình nước này đi

Mặc cho chủ đánh! Quản chi thân già!

Quen rồi bao chuyện xót xa

Sợ chi! Liều mạng! Chết là cùng thôi!"

Thầy tu: "Nếu vậy được rồi

Của mang bố thí quý nơi lòng thành

Bà đi múc nước đầy bình

Tìm nơi nước sạch múc nhanh mang về!"

Nghe lời bà vội vã đi

Múc đầy nước sạch lòng thì vui thay

Đem lên cung kính biếu thầy

Thầy tu hoan hỉ đưa tay nhận liền

Sau khi chú nguyện im lìm

Thầy lên tiếng dạy: "Bà nên tu hành

Ăn chay, niệm Phật tâm thành

Giờ gây công đức, quả lành mai sau!"

Rồi thầy hỏi: "Bà ngủ đâu

Nơi ăn chốn ở chỗ nào sạch không?"

Bà thưa: "Tôi khổ vô cùng

Ngủ lăn ngủ lóc giáp vòng quanh đây,

Khi nhà bếp, lúc cối xay

Bạ đâu ngủ đó qua ngày mà thôi!"

Thầy tu: "Bà nhớ lời tôi

Giữ cho thanh tịnh thảnh thơi cõi lòng

Lo tròn bổn phận cho xong

Đừng gieo oán hận vào trong tâm mình,

Lựa khi vắng vẻ đêm thanh

Cả nhà ngủ hết, lén nhanh mọi người

Lên nhà trên, vào trong ngồi

Xếp bằng niệm Phật trước nơi bàn thờ

Tâm đừng nghĩ ngợi vẩn vơ

Tập trung tư tưởng để mà cầu kinh

Sẽ mau hưởng được phước lành!"

Bà già hoan hỉ quay nhanh trở về

Lời thầy khuyên mãi khắc ghi

Thế rồi một tối làm y lời này.

*

Dinh cơ trưởng giả sáng nay

Gia nhân mở cửa thấy ngay bà già

Lên đây lén lút tối qua

Bây giờ ngồi chết thật là bình yên,

Mọi người hô hoán ầm lên

Báo tin trưởng giả đến liền để coi

Chủ nhà vội chạy tới nơi

Thấy bà già chết, tức thời quát la:

"Cột chân kéo xác này ra

Bỏ vào rừng để quạ tha làm mồi

Để đây ghê tởm quá trời!"

Gia nhân sợ hãi vâng lời chủ kia

Cột chân xác chết kéo đi

Nhưng ra khỏi ngõ tức thì ngừng tay

Đắp cho bà tấm vải dày

Rồi cùng khiêng xác đưa ngay vào rừng.

*

Ai ngờ bà lão bần cùng

Chết rồi thần thức lên từng trời cao

Cõi trời Đao Lợi sinh vào

Do thầy chú nguyện với bao tâm thành,

Do bà cố gắng tự mình

Suốt đời niệm Phật. Hiển linh tuyệt vời.

Mới hay giá trị con người

Không do vật chất, do nơi tinh thần,

Bà già nghèo khổ tấm thân

Bán nghèo với giá vô ngần quý thay

Làm thiên tử kể từ đây

Hưởng nhiều phước báu, gương này soi chung.

(phỏng theo bản văn xuôi của T.P)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/10/2014(Xem: 4630)
Hai kẻ thù đã lâu đời, hai chàng trai trẻ nhất thuộc hai dòng tộc võ sĩ đạo lâm chiến, đang rình rập nhau trong vùng hẻm núi dưới mé sông trong lúc bà con dòng họ đôi bên đang chém giết lẫn nhau trên phía đồng bằng. Mối hận thù nẩy sinh giữa hai chàng sâu đậm đến độ như muốn lộn mửa, và khi trông thấy nhau, mỗi chàng đều nguyện cầu: “Lạy Trời nếu con phải chết, xin cho con gây ra tử thương cho kẻ oán thù trước khi con lìa đời.”
18/10/2014(Xem: 43747)
Uống trà là một nét đẹp văn hóa truyền thống của Á Đông theo phương châm“Bình minh nhất trản trà". Cách đây hàng ngàn năm, con người đã biết đến trà như một loại nước uống mang lại sự sảng khoái, thanh khiết cho tinh thần, là cách để khai tâm mở trí. Người ta xem chén trà là đầu câu chuyện, là gợi mở tâm linh, là giao thoa văn hóa và kết nối lòng người.
10/10/2014(Xem: 4357)
Từ lâu, người ta tin rằng có một cái “bản ngã” thường hằng, bất biến, tồn tại độc lập trong vạn pháp. Trước sự nhầm lẫn tai hại đó, Phật Thích Ca bèn nói thuyết “Vô ngã” để chúng sinh phá chấp. “Vô ngã” không phải không có gì hết mà là không có tự tánh, không có tự thể riêng biệt. Đây là một trong ba Pháp ấn trong hệ thống giáo lý của Phật giáo (hai pháp ấn kia là Khổ và Vô thường). Gọi là Pháp ấn có nghĩa là trong tám mươi bốn ngàn pháp môn của đạo Phật nếu có pháp môn nào không có một trong ba khái niệm Khổ, Vô thường và Vô ngã thì không phải giáo lý đạo Phật.
03/10/2014(Xem: 4290)
Học sinh thường cho rằng, các thầy cô chỉ nhớ tên học sinh giỏi, học sinh đẹp hoặc hoạt động hiệu đoàn... Cho nên mỗi lần nếu tôi gặp lại một em học sinh không có gì xuất sắc ngày xưa mà tôi còn nhớ tên, thì đó là một niềm vui to lớn của em là được thầy cô còn nhớ mặt và nhớ tên của mình. Sau khi cuộc chiến lan tràn trên quê hương thầy trò phân tán, tôi đi cùng nam cực bắc, đi xa nửa trái địa cầu, rải rác khắp nơi, tôi vẫn gặp lại những em học sinh Đồng Khánh cũ. Và nhờ cố gắng nhớ mặt, nhớ tên các em, nên hầu như ở đâu tôi cũng gieo được chút niềm vui cho những người đang phập phồng chờ được gọi đích danh sau một câu mở đầu công thức: „Cô còn nhớ em không?“. Những con người ấy, những học sinh Đồng Khánh tha phương - xa trường, xa thầy bạn cũ đã xưa rất xưa, mà chính bản thân khi soi gương cũng không còn bắt được hình bóng mình ngày ấy..., bất giác còn được gọi tên, còn được nhớ, còn được nhắc nhở đến bao kỷ niệm của một thời. Ôi! Vui biết bao nhiêu, ấm áp ngọt ngào biết bao nhiêu
02/10/2014(Xem: 4204)
Ra đến bến xe trời hãy còn khuya khoắt, trông cảnh nhộn nhịp ì xèo rộn lên từ những gian hàng ăn uống ở một góc gần bên, và tiếng nói cười lăng xăng của hành khách đi lại lẫn với tiếng những người bán hàng rong mời mọc. Nhìn sang quầy bán vé bây giờ không giống như những ngày tháng sau năm 1975, bề mặt thoáng mát rộng rãi trang trí bởi những bảng quảng cáo, những hoa văn sắc màu, những hàng ghế để khách ngồi chờ trông lịch sự. Khách mua vé rất nhanh khỏe hơn xưa, không còn cảnh chen lấn xếp hàng cả buổi trời như trước đây, lại có thêm nhiều loại xe phục vụ trên các tuyến, việc nầy còn tùy thuộc vào túi tiền của hành khách, ai có tiền nhiều thì đi loại xe chất lượng cao, còn ai ít tiền thì đi loại xe bình dân hơn. Nói vậy chứ còn khá hơn trước Đây, bởi ba chiếc xe car cũ kỹ hoặc xe chạy bằng than đá trên những tuyến Miền Đông, Miền Tây vào những năm 1975 - 1990.
24/09/2014(Xem: 6332)
Xưa có một người quyết tâm học đạo, theo một vị thiền sư sống trong một cái cốc nhỏ, sống đạm bạc, quyết chí tu hành. Một này kia, có công việc, vị thiền sư phải đi xa, dặn đệ tử ở lại phải lo chăm chỉ tu hành, luôn luôn giữ lối sống đạm bạc và tâm hồn thanh tịnh. Người đệ tử này chỉ có một chiếc khố che thân. Đêm tới khi ngủ, máng khố trên vách, thường bị chuột chui ra cắn rách, phải xin bá tánh chút vải thừa thay khố nhiều lần.
03/09/2014(Xem: 4600)
Lúc đó tôi được 13 tuổi. Trước đó một năm gia đình tôi đã chuyển từ Bắc Florida đến miền Nam California. Tôi dễ hận thù khi vừa đến tuổi vị thành niên. Tôi rất nóng nảy và hay cãi lại đối với bất cứ chuyện gì dù nhỏ mà ba mẹ đề cập tới, đặc biệt là nếu nó liên quan đến tôi. Cũng giống như nhiều đứa trẻ lứa tuổi thiếu niên, tôi khó chấp nhận bất cứ điều gì đi ngược lại với quan điểm của mình về thế giới chung quanh. Một đứa bé “thông minh không cần dạy bảo”. Tôi phản đối bất cứ biểu lộ nào của tình thương. Thật sự, tôi dễ giận dữ khi đề cập đến cái từ “thương yêu”.
26/08/2014(Xem: 4013)
Ở ven bờ bể Mễ Tây Cơ, có một làng nhỏ chuyên sống nghề đánh cá, một chiếc thuyền con lướt sóng nhẹ vào bờ, đem về vài con cá khá to. Một ông khách Mỹ đứng trên bờ, khen ngợi nghề đánh cá tài giỏi của anh chàng Mễ Tây Cơ và hỏi anh ta mất bao nhiêu thì giờ mới được chừng đó cá. _ “ Không lâu lắm đâu !” anh Mễ Tây Cơ trả lời.
17/08/2014(Xem: 24870)
Đại Sư tên là Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sinh ra ngài nhằm giờ tý, ngày mùng tám tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12. Khi ấy, hào quang từ nhà ngài chiếu sáng lên không trung, mùi hương lạ tỏa lan khắp nhà. Đến tảng sáng, có hai vị tăng lạ mặt đến thăm, bảo cha ngài rằng: “Khuya nay ông vừa sinh quý tử, chúng tôi đến đây là để đặt tên cho cháu bé. Ông nên đặt trước là chữ Huệ, sau là chữ Năng.”
17/08/2014(Xem: 23965)
Nhân quả báo ứng là một tập truyện của Trung Quốc, có vẽ tranh minh họa rất sinh động. Tập truyện này trước do ngài Văn Xương Đế Quân đời nhà Tấn sưu tập những truyện nói về nhân quả và sự báo ứng qua nhiều triều đại ở Trung Quốc.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]