Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

21. Dưới Gốc Mai Vàng

29/11/201115:17(Xem: 4075)
21. Dưới Gốc Mai Vàng
TRUYỆN CỔ PHẬT GIÁO
TRUYỆN THƠ - TẬP 2
Tâm Minh Ngô Tằng Giao
Diệu Phương tái bản 2002

(21)

Dưới Gốc Mai Vàng


Ngày xưa có vợ chồng Rùa

Sống trong hang đá bốn mùa thảnh thơi

Hang như tổ ấm cuộc đời

Bên dòng sông mộng nước trôi xanh mầu.

*

Một ngày Rùa Vợ ốm đau

Chạy thầy, chạy thuốc đã lâu chẳng lành

Rùa Chồng thương vợ bò quanh

Thở dài! Nhìn đám mây xanh than trời.

*

Chú Tôm thường lệ rong chơi

Bơi ngang hang đá nghe lời rên la

Hỏi thăm Rùa, rõ chuyện nhà

Tôm bèn lên tiếng thiết tha cứu người:

"Bệnh này cũng dễ chữa thôi

Cứ tìm gan khỉ về phơi ít ngày

Gan khô đưa vợ ăn ngay

Ăn xong bệnh khỏi! Thuốc hay vô vàn!".

*

Vợ chồng Rùa lặng lẽ bàn

Nghĩ mưu tính kế kiếm gan khỉ về

Nhớ ra ở đảo hoang kia

Giữa con sông vắng nước chia đôi dòng

Có đàn khỉ nọ thật đông

Quây quần nhảy nhót bên sông hàng ngày

Mỗi khi Rùa lội qua đây

Anh chàng Khỉ chúa thường hay rỡn đùa

Nhăn mày nhăn mặt trêu Rùa,

Phen này cho hết giở trò khinh khi!

*

Rùa từ biệt vợ ra đi

Tính toan chước quỷ, nghĩ suy mưu thần

Làm sao lừa Khỉ đến gần

Để rồi giết Khỉ lấy gan đem về.

Rùa bơi đến đảo nửa khuya

Vầng trăng mười sáu bốn bề sáng soi

Ánh vàng phô sắc trên trời,

Rùa bò lên đảo đến nơi Khỉ ngồi

Hỏi thăm. Gợi chuyện. Rỡn cười.

Khỉ chuyền cây xuống đùa chơi, tâm tình:

"Những đêm trăng sáng lung linh

Tôi ưa thức trễ, một mình ngắm trăng!"

Rùa bàn: "Thú vị chi bằng

Nếu nghe thêm cá tưng bừng hòa ca!"

*

Tò mò Khỉ hỏi thêm ra

Chàng Rùa tán tỉnh: "Gần nhà chúng tôi

Sáng ra lúc tỏ mặt trời

Cá đều hòa nhạc đón mời bình minh

Nhạc âm vang rất hữu tình

Hòa cùng tiếng sóng dập dình biển khơi

Nghe như giai điệu tuyệt vời

Du dương từ chốn Thiên Thai vọng về!"

*

Khỉ nghe, lòng dạ đê mê

Vội than: "Tôi chẳng có hề biết bơi!"

Chàng Rùa dụ dỗ đỡ lời:

"Lưng tôi rước bạn thảnh thơi cứ ngồi

Tôi đưa tới chốn tới nơi

Sợi lông không ướt! Xin mời đi ngay!"

Khỉ nghe đẹp dạ lắm thay

Lưng Rùa leo vội, nào hay bị lừa.

*

Sông trôi. Sóng cuộn. Gió lùa

Rùa bơi chở Khỉ, lòng Rùa sướng vui

Phục mình mưu mẹo hơn người,

Nửa đường đã thấy chân trời hừng đông.

Khỉ mơ mộng, giọng reo mừng:

"Gió đưa tiếng nhạc nghe chừng đâu đây!"

Rùa cười chú Khỉ thơ ngây:

"Nhạc nào mà có, mà say lòng người!

Tôi cần gan bạn mà thôi

Gan khô chữa bệnh vợ tôi mau lành!"

Khôn lanh Khỉ vội chối quanh:

"Gan nào mà có! Thôi anh lầm rồi!

Nhớ rằng loài khỉ chúng tôi

Mỗi khi đi tới một nơi chẳng lành

Thường treo gan lại trên cành

Nhẹ người, nhảy nhót cho nhanh đó mà!

Lá gan tôi để lại nhà

Về mang tặng chị làm quà được thôi

Tôi làm việc thiện quen rồi!"

Rùa nghe tưởng thật, tin lời thiệt hơn,

Ngượng ngùng khẽ nói: "Cám ơn!"

Bơi vòng trở lại, mừng rơn trong lòng.

*

Khỉ về tới đảo vui mừng

Nhảy lên, leo vội tuốt tầng cây cao

Nhắm lưng Rùa liệng mạnh vào

Một hòn đá lớn, miệng gào: "Gan đây

Đem về cho vợ ăn ngay

Vợ ăn mau khỏi! Chú mày khôn thêm!"

*

Rùa tuy đau đớn, lặng im

Chợt bừng ánh đạo! Thoắt chìm cơn mê!

Trong lòng hối hận tràn trề

Vội than: "Hiểm độc mọi bề là Tôm

Xúi bày ra chuyện ác ôn

Khiến ta mù quáng, đáng buồn lắm thay!"

Rùa ăn năn khẽ tỏ bày:

"Xin anh tha thứ, tôi đây lỡ lầm!"

Khỉ nghe Rùa nói thật tâm

Hết buồn. Hết giận. Ra ân cứu người:

"Kể nghe bệnh chị đầu đuôi

Tôi rành nghề thuốc. Tôi thời giúp anh!"

Rùa nghe, nước mắt long lanh

Bệnh tình của vợ ngọn ngành kể ra.

Khỉ bàn: "Quanh quất đâu xa

Lá cây làm thuốc chúng ta mau tìm!"

Cả hai vội vã đi liền

Kiếm ra đủ thuốc quanh miền đảo hoang.

*

Thế rồi Rùa trở về hang

Chở chàng Khỉ chúa nhẹ nhàng trên lưng

Lòng Rùa mở hội tưng bừng

Mưu mô xảo quyệt chẳng vương chút nào.

Bồng bềnh sóng nước nhẹ chao

Đưa Rùa và Khỉ trôi vào trong hang

Vợ Rùa nằm liệt, mơ màng,

"Ông thầy thuốc" Khỉ vội vàng ra tay

Trổ tài chữa bệnh thật hay

Bệnh nhân uống thuốc khỏi ngay tức thì,

Vợ chồng Rùa sướng kể chi

Cúi đầu lạy tạ. Nguyện ghi ơn này.

*

Khỉ mời Rùa, lúc chia tay:

"Có Tăng thuyết pháp tối nay bên rừng

Mời anh chị tới nghe cùng

Gây nền công đức, thoát vùng tử sanh

Hẹn nhau dưới bóng trăng thanh

Gốc cây mai đẹp trên cành đầy hoa!"

*

Rùa bơi chở Khỉ về nhà

Lên bờ Khỉ hái cành hoa mai vàng

Đưa Rùa, giọng nói dịu dàng:

"Mùa Xuân đã đến hương ngàn ngất ngây

Tặng anh chị cánh hoa này

Chúc luôn hạnh phúc vui vầy yêu thương!"

Ngậm hoa Rùa trở về hang

Tiếng lòng hòa nhịp sóng vàng reo vui.

(phỏng theo bản văn xuôi của Bảo Liên)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/10/2014(Xem: 4630)
Hai kẻ thù đã lâu đời, hai chàng trai trẻ nhất thuộc hai dòng tộc võ sĩ đạo lâm chiến, đang rình rập nhau trong vùng hẻm núi dưới mé sông trong lúc bà con dòng họ đôi bên đang chém giết lẫn nhau trên phía đồng bằng. Mối hận thù nẩy sinh giữa hai chàng sâu đậm đến độ như muốn lộn mửa, và khi trông thấy nhau, mỗi chàng đều nguyện cầu: “Lạy Trời nếu con phải chết, xin cho con gây ra tử thương cho kẻ oán thù trước khi con lìa đời.”
18/10/2014(Xem: 43744)
Uống trà là một nét đẹp văn hóa truyền thống của Á Đông theo phương châm“Bình minh nhất trản trà". Cách đây hàng ngàn năm, con người đã biết đến trà như một loại nước uống mang lại sự sảng khoái, thanh khiết cho tinh thần, là cách để khai tâm mở trí. Người ta xem chén trà là đầu câu chuyện, là gợi mở tâm linh, là giao thoa văn hóa và kết nối lòng người.
10/10/2014(Xem: 4357)
Từ lâu, người ta tin rằng có một cái “bản ngã” thường hằng, bất biến, tồn tại độc lập trong vạn pháp. Trước sự nhầm lẫn tai hại đó, Phật Thích Ca bèn nói thuyết “Vô ngã” để chúng sinh phá chấp. “Vô ngã” không phải không có gì hết mà là không có tự tánh, không có tự thể riêng biệt. Đây là một trong ba Pháp ấn trong hệ thống giáo lý của Phật giáo (hai pháp ấn kia là Khổ và Vô thường). Gọi là Pháp ấn có nghĩa là trong tám mươi bốn ngàn pháp môn của đạo Phật nếu có pháp môn nào không có một trong ba khái niệm Khổ, Vô thường và Vô ngã thì không phải giáo lý đạo Phật.
03/10/2014(Xem: 4289)
Học sinh thường cho rằng, các thầy cô chỉ nhớ tên học sinh giỏi, học sinh đẹp hoặc hoạt động hiệu đoàn... Cho nên mỗi lần nếu tôi gặp lại một em học sinh không có gì xuất sắc ngày xưa mà tôi còn nhớ tên, thì đó là một niềm vui to lớn của em là được thầy cô còn nhớ mặt và nhớ tên của mình. Sau khi cuộc chiến lan tràn trên quê hương thầy trò phân tán, tôi đi cùng nam cực bắc, đi xa nửa trái địa cầu, rải rác khắp nơi, tôi vẫn gặp lại những em học sinh Đồng Khánh cũ. Và nhờ cố gắng nhớ mặt, nhớ tên các em, nên hầu như ở đâu tôi cũng gieo được chút niềm vui cho những người đang phập phồng chờ được gọi đích danh sau một câu mở đầu công thức: „Cô còn nhớ em không?“. Những con người ấy, những học sinh Đồng Khánh tha phương - xa trường, xa thầy bạn cũ đã xưa rất xưa, mà chính bản thân khi soi gương cũng không còn bắt được hình bóng mình ngày ấy..., bất giác còn được gọi tên, còn được nhớ, còn được nhắc nhở đến bao kỷ niệm của một thời. Ôi! Vui biết bao nhiêu, ấm áp ngọt ngào biết bao nhiêu
02/10/2014(Xem: 4203)
Ra đến bến xe trời hãy còn khuya khoắt, trông cảnh nhộn nhịp ì xèo rộn lên từ những gian hàng ăn uống ở một góc gần bên, và tiếng nói cười lăng xăng của hành khách đi lại lẫn với tiếng những người bán hàng rong mời mọc. Nhìn sang quầy bán vé bây giờ không giống như những ngày tháng sau năm 1975, bề mặt thoáng mát rộng rãi trang trí bởi những bảng quảng cáo, những hoa văn sắc màu, những hàng ghế để khách ngồi chờ trông lịch sự. Khách mua vé rất nhanh khỏe hơn xưa, không còn cảnh chen lấn xếp hàng cả buổi trời như trước đây, lại có thêm nhiều loại xe phục vụ trên các tuyến, việc nầy còn tùy thuộc vào túi tiền của hành khách, ai có tiền nhiều thì đi loại xe chất lượng cao, còn ai ít tiền thì đi loại xe bình dân hơn. Nói vậy chứ còn khá hơn trước Đây, bởi ba chiếc xe car cũ kỹ hoặc xe chạy bằng than đá trên những tuyến Miền Đông, Miền Tây vào những năm 1975 - 1990.
24/09/2014(Xem: 6325)
Xưa có một người quyết tâm học đạo, theo một vị thiền sư sống trong một cái cốc nhỏ, sống đạm bạc, quyết chí tu hành. Một này kia, có công việc, vị thiền sư phải đi xa, dặn đệ tử ở lại phải lo chăm chỉ tu hành, luôn luôn giữ lối sống đạm bạc và tâm hồn thanh tịnh. Người đệ tử này chỉ có một chiếc khố che thân. Đêm tới khi ngủ, máng khố trên vách, thường bị chuột chui ra cắn rách, phải xin bá tánh chút vải thừa thay khố nhiều lần.
03/09/2014(Xem: 4599)
Lúc đó tôi được 13 tuổi. Trước đó một năm gia đình tôi đã chuyển từ Bắc Florida đến miền Nam California. Tôi dễ hận thù khi vừa đến tuổi vị thành niên. Tôi rất nóng nảy và hay cãi lại đối với bất cứ chuyện gì dù nhỏ mà ba mẹ đề cập tới, đặc biệt là nếu nó liên quan đến tôi. Cũng giống như nhiều đứa trẻ lứa tuổi thiếu niên, tôi khó chấp nhận bất cứ điều gì đi ngược lại với quan điểm của mình về thế giới chung quanh. Một đứa bé “thông minh không cần dạy bảo”. Tôi phản đối bất cứ biểu lộ nào của tình thương. Thật sự, tôi dễ giận dữ khi đề cập đến cái từ “thương yêu”.
26/08/2014(Xem: 4012)
Ở ven bờ bể Mễ Tây Cơ, có một làng nhỏ chuyên sống nghề đánh cá, một chiếc thuyền con lướt sóng nhẹ vào bờ, đem về vài con cá khá to. Một ông khách Mỹ đứng trên bờ, khen ngợi nghề đánh cá tài giỏi của anh chàng Mễ Tây Cơ và hỏi anh ta mất bao nhiêu thì giờ mới được chừng đó cá. _ “ Không lâu lắm đâu !” anh Mễ Tây Cơ trả lời.
17/08/2014(Xem: 24868)
Đại Sư tên là Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sinh ra ngài nhằm giờ tý, ngày mùng tám tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12. Khi ấy, hào quang từ nhà ngài chiếu sáng lên không trung, mùi hương lạ tỏa lan khắp nhà. Đến tảng sáng, có hai vị tăng lạ mặt đến thăm, bảo cha ngài rằng: “Khuya nay ông vừa sinh quý tử, chúng tôi đến đây là để đặt tên cho cháu bé. Ông nên đặt trước là chữ Huệ, sau là chữ Năng.”
17/08/2014(Xem: 23964)
Nhân quả báo ứng là một tập truyện của Trung Quốc, có vẽ tranh minh họa rất sinh động. Tập truyện này trước do ngài Văn Xương Đế Quân đời nhà Tấn sưu tập những truyện nói về nhân quả và sự báo ứng qua nhiều triều đại ở Trung Quốc.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]