Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

22. Công Chúa Nhật Quang (truyện thơ Kinh Pháp Cú của Tâm Minh Ngô Tằng Giao)

29/11/201115:17(Xem: 4877)
22. Công Chúa Nhật Quang (truyện thơ Kinh Pháp Cú của Tâm Minh Ngô Tằng Giao)
TRUYỆN CỔ PHẬT GIÁO
TRUYỆN THƠ - TẬP 2
Tâm Minh Ngô Tằng Giao
Diệu Phương tái bản 2002

(22)
lotus_56

cong chua nhat quang




Công Chúa Nhật Quang

Nhật Quang Công Chúa đẹp xinh

Dung nhan diễm lệ, thông minh hơn người

Lại thêm đức hạnh tuyệt vời

Hiếu cùng cha mẹ, thương nơi dân hiền,

Giúp người nghèo khó tật nguyền

Toàn dân cảm phục, khắp miền mến yêu.

*

Trong vườn Thượng Uyển một chiều

Vua cùng Hoàng Hậu dấu yêu dùng trà

Nhật Quang hầu đứng bên cha

Vua hoan hỉ nói: "Con ta hơn người

Sống vui, hạnh phúc lâu dài

Chính nhờ cha mẹ. Nào ai sánh bằng!"

Nhật Quang bèn nói dịu dàng:

"Công ơn cha mẹ sánh ngang biển trời

Ghi lòng tạc dạ mãi thôi

Nhưng con thiết nghĩ cuộc đời con đây

Một phần cha mẹ dựng gây

Một phần nhờ kiếp trước dầy công tu!".

*

Lời nàng chẳng đẹp lòng Vua

Khiến Ngài tự ái như vừa tổn thương

Vua suy nghĩ suốt đêm trường

Trong lòng bực bội, vấn vương muộn sầu

Sáng ra đòi một quan hầu

Sai đi khắp chốn tìm mau ra người

Đói nghèo, khổ cực, tả tơi

Lang thang xó chợ, tuổi thời thanh niên

Dẫn về trình diện trước thềm

Vua đem Công Chúa gả liền ngay cho

Mỉa mai Vua nói: "Chớ lo

Theo con kiếp trước con tu đã nhiều

Kiếp này đâu có sợ nghèo

Để ta xem thử mọi điều đúng không

Lấy người cơ cực làm chồng

Xem con có thoát khỏi vòng khổ đau?".

*

Triều đình, Hoàng Hậu lo âu

Chỉ riêng Công Chúa trước sau mỉm cười

Tỏ ra bình tĩnh khác người

Giã từ nhung gấm, vào nơi bần cùng

Theo chồng rời khỏi Hoàng Cung

Toàn dân nghe chuyện xót thương ngậm ngùi.

*

Bụi đời tơi tả dập vùi

Nhật Quang lê bước buồn vui trên đường

Hỏi thăm gia cảnh của chàng:

"Sao trông diện mạo thuộc hàng thư sinh

Mà nay nghèo khổ cùng đinh?"

Buồn rầu chàng mới tâm tình xót xa:

"Trước kia sống với mẹ cha

Gia đình giàu có, cửa nhà thênh thang

Chơi phóng túng, sống hoang đàng.

Chỉ chuyên cờ bạc, chẳng màng bút nghiên

Đến khi cha mẹ quy tiên

Cửa nhà bán hết! Bạc tiền trôi đi!

Trắng tay chẳng có nghề chi

Đành đi hành khất kéo lê thân tàn

Còn đâu gia sản giầu sang

Chỉ còn một mảnh vườn hoang cỗi cằn

Giờ đây hối đã muộn mằn!".

Nghe xong Công Chúa khẽ an ủi chàng:

"Đôi ta kết nghĩa đá vàng

Từ nay chồng vợ tìm đường làm ăn

Trước tiên kiếm chỗ nương thân

Đành về tạm trú nơi phần vườn hoang"

*

Vầng dương chói lọi ánh vàng

Theo chân Công Chúa mở đường tương lai

Vườn hoang, cây rậm, cỏ dài

Vợ chồng ra sức trong ngoài dọn ngay

Xóm làng cảm mến tiếp tay

Dựng chòi tạm trú qua ngày gian lao.

Đất vườn cằn cỗi cố đào

Cuốc sâu xuống đất ai nào có hay

Tìm ra vàng bạc chất đầy

Mấy chum châu báu chôn đây lâu rồi.

*

Vợ chồng rất đỗi mừng vui

Cùng nhau tạo dựng cơ ngơi chốn này

Ngựa xe, nhà cửa, vườn cây

Khang trang lộng lẫy, phô đầy sắc hoa

Tốt lòng giúp đỡ gần xa

Kẻ nghèo tàn tật, người già neo đơn

Ơn lành chia khắp muôn phương

Từ bi tỏa ngát thơm hương một vùng.

*

Từ khi Công Chúa rời Cung

Nhà Vua nghĩ lại vô cùng ăn năn

Chắc con gian khó nhọc nhằn

Cho nên sai phái cận thần dò la

Phải tìm tung tích cho ra

Rồi về báo lại cho nhà Vua hay.

Cận thần đi khắp đông tây

Tìm ra Công Chúa vội quay về triều

Trước sau trình báo mọi điều

Vua nghe lòng vẫn còn nhiều hồ nghi

Dò la Vua đích thân đi

Mới hay Công Chúa trăm bề an vui.

*

Nhà Vua thắc mắc trở lui

Tìm khu tịnh xá, ghé nơi Phật Đài

Vua từng nghe tiếng tăm Ngài

Tu hành giác ngộ, ít ai sánh cùng

Vua vào đảnh lễ Phật xong

Tỏ bầy thắc mắc nỗi lòng ưu tư:

"Chắc xưa Công Chúa khéo tu

Kiếp này hưởng phước rất ư nhiệm mầu?"

*

Khoan thai Phật kể chuyện sau:

"Lái buôn có kẻ rất giàu trước kia

Chồng thời keo kiệt, chi ly

Vợ thời thành kính chuyên đi cúng dường

Giúp người nghèo khổ thập phương

Tôn thờ Tam Bảo lòng thường thành tâm,

Anh chồng bực bội vô ngần

Nhiều phen la mắng, bao lần cản ngăn,

Vợ bèn từ tốn khuyên răn

Mong chồng nguồn đạo ăn năn tìm về

Mau mau rời khỏi bến mê

Máu tham dẹp bỏ còn chi quý bằng,

Khuyên chồng ròng rã tháng năm

Mãi rồi chồng mới hồi tâm nghe lời.

Lái buôn keo kiệt một thời

Là chàng hành khất nổi trôi kiếp này,

Còn người vợ kiếp trước đây

Kiếp này sung sướng hưởng đầy hồng ân

Chính là Công Chúa Nhật Quang

Xinh tươi nhan sắc, đoan trang tính tình

Lại thêm tột bực thông minh

Đó là tiền kiếp ngọn ngành trước sau!".

*

Nhà Vua suy ngẫm hồi lâu

Lòng riêng chợt ngộ Đạo mầu sáng soi

Cúi đầu đảnh lễ cáo lui

Về triều ra lệnh cho người vội đi

Đón mời Công Chúa trở về

Cùng chồng trọn nghĩa phu thê mặn nồng

*

Ở đời nhân tốt gieo trồng

Quả lành, phước báu ta cùng hưởng thôi.

Tâm Minh Ngô Tằng Giao

(Thi hóa Truyện Cổ Phật Giáo)


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/10/2010(Xem: 3163)
Hằng Nga trong cung trăng: Theo sách của Hoài Nam Tử, Hậu Nghệ xin thuốc trường sinh của bà Tây Vương Mẫu, Hằng Nga là vợ của Hậu Nghệ uống trộm...
27/10/2010(Xem: 20580)
Mục đích của chúng tôi trong khi sưu tập những mẫu chuyện kể này là để mọi người thưởng thức những tinh hoa hay đẹp của giáo – lý qua những câu chuyện tươi sáng đẹp đẽ. Nếu công việc sưu tập ca – dao là một việc khó thì công việc sưu tập và trình bày những mẩu chuyện cổ của đạo Phật cũng là một việc khó khăn và đòi hỏi sự hợp lực của nhiều người. Hàng chục ngàn mẫu chuyện đạo, nào thuộc loại tiền thân, nào thuộc loại lịch sử, nào thuộc loại thí dụ, nào thuộc loại triết lý. . . những câu chuyện đó thật là phong phú và chứa đựng những tinh hoa của giáo - lý, từ - bi và trí tuệ. . . Ðọc những mẫu chuyện đạo ấy, không ai thấy chán nản cả. Các em thiếu nhi thích đã đành, người lớn chúng ta cũng vẫn thích và hơn thế nữa, lắm lúc cũng phải suy nghĩ nhiều để có thể hiểu được triết – lý của một câu chuyện. Chúng tôi sức lực không bao lăm thành thử trông mong rất nhiều ở các vị học giả thâm uyên và dày công nghiên cứu. Chúng tôi chỉ muốn làm công việc nói lên những nguyện vọng, và tr
22/10/2010(Xem: 4080)
Tại biên giới của tỉnh Tây Khương sát với Tây Tạng, có một bà lão sống cô độc, chồng và đứa con trai duy nhất của bà đã qua đời. Bà sống nhờ một thửa đất nhỏ trồng những hạt ngũ cốc. Vì cuộc đời đã trải qua nhiều gian truân từ nhỏ, bà lão cảm thấy nghiệp chướng trong người rất nặng nên đã cố công tìm hỏi những người chung quanh phương pháp chuộc tội để cầu xin cho tâm hồn được bình yên.
21/10/2010(Xem: 9132)
Bị xổng một lần trong khóa tu học kỳ 6 tại Bỉ, vì chọn ngày hè trật đường rầy (hãng tôi làm việc phải chọn hè từ đầu tháng 2); năm sau, tôi quyết tâm canh ngày giờ cho đúng để tham dự cho bằng được khóa tu học kỳ 7 tại Đan Mạch, do Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Âu Châu tổ chức.
19/10/2010(Xem: 8950)
Khi xe chúng tôi đến nơi, đồng hồ chỉ đúng 12 giờ khuya. Phòng ốc dành cho 300 giường đã không còn chỗ trống. Ban Tổ Chức đành trưng dụng phòng họp, phòng học - một cho phái nữ, một cho phái nam - với các tấm nệm lót dưới đất cho chúng tôi ngủ tạm. Giải quyết một lúc cho phái đoàn Thụy Sĩ 30 người - chưa kể các nước khác - đâu phải dễ. Vả lại đi chùa thì phải chấp nhận "ăn chay nằm đất". Nằm "đất" còn phải chịu, lựa là nằm "nệm", nên chúng tôi vui vẻ nhận lời, không than van gì cả. Mà than van nỗi gì được khi đã hiểu giáo lý (dù chút chút) của đạo Phật. Mọi sự phải do "duyên" mà có. Và "duyên" này khởi từ "nhân" chiều nay.
17/10/2010(Xem: 10248)
Hơn 6 tiếng xe lửa từ Aschaffenburg, tôi trở về đến nhà gần 10 giới tối. Lục đục tắm rửa, ăn chén súp nóng (do chồng nấu cho) huyên thuyên kể chuyện, rồi đánh răng... mãi gần 12 giờ khuya tôi mới lên giường đi ngủ. Sáng sớm hôm sau 6 giờ thức dậy sửa soạn đi... cày. Công việc ứ đọng của 2 ngày thứ 5, thứ 6 (lấy hè, cộng với công việc của thứ 2 đầy ắp trên bàn. Tôi một mình chịu trách nhiệm một phòng không ai thay thế). Ông xếp trước khi về văn phòng còn đứng đó chờ đợi, vẻ lo âu. Tôi trấn an ông:
17/10/2010(Xem: 5046)
Tết Trung Thu ăn vào ngày rằm tháng 8. Nguyên cuối đời nhà Tây Hán (206 trước 23 sau D.L.), Vương Mãng nhân được cầm giữ chính quyền...
17/10/2010(Xem: 3069)
Một vị thương gia lập nghiệp từ tay trắng, sau kiếm được rất nhiều tiền nhưng vì buôn bán trong thời kinh tế không ổn định, khiến anh ta trở nên phá sản, nợ nần chồng chất. Nghĩ mãi không tìm ra cách giải quyết, anh ta bèn ra bờ sông tự tử. Vào lúc canh ba một đêm nọ, anh ta đến trước bờ sông, bỗng nhiên nhìn thấy một thiếu nữ đang ngồi khóc thảm thiết, anh bèn đến hỏi cô gái: - Có chuyện gì mà đêm hôm khuya khoắt cô ngồi khóc một mình ở đây?
16/10/2010(Xem: 4249)
Hàng ngàn năm trước tây lịch, khi thổ dân Dravidian còn ngự trị khắp lãnh thổ Ấn Độ cổ thời, vùng phía tây Hy Mã Lạp Sơn là lãnh địa của rắn. Vốn là vùng rừng núi bạc ngàn nằm trên nóc nhà thế giới, Hy Mã Lạp Sơn là nơi thâm u bí hiểm với sơn lam chướng khí trùng trùng và vô số loài thú dữ cư ngụ sẵn sàng lấy mạng người để làm thức ăn. Thời đó, thổ dân Dravidian không có đủ vũ khí hùng mạnh để chống cự với các loài mãnh thú và tự bảo vệ mình. Từng người vào rừng săn tìm thức ăn đã không thấy trở về. Độc địa nhất không phải chỉ là những hổ, cọp, gấu, beo nằm lồ lộ chờ mồi bên bờ suối, dưới gốc cây hay trong khe đá, mà ngay bên dưới lớp lá khô mục của đường rừng là những loài rắn nguy hiểm chực chờ bước chân người.
16/10/2010(Xem: 3946)
Trong thiền không có đầu đuôi, khúc chiết, lý luận. Nó đập vỡ lý luận. Đó là thế giới lý tưởng của câu thơ lớp ba mồ côi luận lý. Thế giới của những câu cuối lấc cấc, mẹ gà con vịt. Đừng bắt tôi giải thích; hãy lang thang với tôi trong câu cuối của dăm ba chuyện thiền nổi tiếng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]