Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

24. Nai Hiền

29/11/201115:17(Xem: 4552)
24. Nai Hiền
TRUYỆN CỔ PHẬT GIÁO
TRUYỆN THƠ - TẬP 1
Tâm Minh Ngô Tằng Giao
Diệu Phương tái bản 2002

(24)

Nai Hiền

Ngày xưa có chú Nai hiền

Nhởn nhơ vui sống giữa miền hoang sơ

Trong khu rừng rậm ven bờ

Sông Hằng cuồn cuộn sóng mờ nhân gian.

Dáng Nai đẹp đẽ dịu dàng

Sừng trong nước ngọc, thân vàng ánh châu

Nhưng mắt Nai lắng u sầu

Thương cho trần thế nhuốm mầu bi ai,

Nai nghe, nói được tiếng người

Nai là Bồ Tát một thời hiện thân.

*

Bên Nai muông thú quây quần

Coi Nai như Mẹ muôn phần yêu thương

Như Thầy sáng suốt dẫn đường

Một vùng đồi núi ngát hương thanh bình.

Sợ người thấy sẽ hại mình

Nai cùng muông thú sống quanh trong rừng.

*

Một ngày trời đất mịt mùng

Sông Hằng gầm thét sóng dâng ngập tràn

Nai đang thơ thẩn non ngàn

Chợt nghe kêu cứu tiếng vang núi đồi

Nhìn xa Nai thấy một người

Ôm thanh củi mục chơi vơi giữa dòng

Mênh mông sóng nước reo cuồng

Sức người đã yếu, sắp buông trôi rồi

Tâm Bồ Tát bỗng rạng ngời

"Người mà đau khổ, ta thời khổ đau!

Cứu người trước, cứu mình sau!"

Nai lao vội xuống dòng sâu vớt người,

Sá chi sóng gió dập vùi

Dìu người lên được tới nơi an toàn.

*

Nạn nhân tỉnh lại bàng hoàng

Cám ơn công đức vô vàn của Nai

Nguyện xin tạc dạ lâu dài

Khiến Nai sung sướng thốt lời tâm can:

"Mừng Ông còn tấm lòng vàng

Dạt dào ân huệ, chứa chan nghĩa tình!

Hãy về ngay với gia đình

Nhớ đừng nói chuyện chúng mình nơi đây

Người đời nham hiểm chất đầy

Sẽ tìm cách bắt thân này mất thôi!".

Nạn nhân hứa chắc một lời

Khấu đầu lạy tạ. Về nơi thị thành.

*

Người về đoàn tụ gia đình

Ðúng khi Hoàng Hậu tâu trình cùng Vua:

"Ðêm qua thần thiếp nằm mơ

Thấy con Nai đẹp nói ra tiếng người

Nai thần thật quả lạ đời

Trên tòa giảng Pháp lời lời cao sang

Thật là chuyện lạ vô vàn

Nếu ta bắt được Nai vàng về cung

Nhốt Vườn Thượng Uyển vui chung

Ðiềm lành cho nước! Ðiều mừng cho ta!"

Vua nghe thỏ thẻ lời hoa

Chiều lòng Hoàng Hậu, lệnh ra khắp miền:

"Ai mà giúp bắt Nai hiền

Vua ban bổng lộc, bạc tiền, chức cao!"

*

Người mà Nai cứu hôm nào

Nghe Vua trọng thưởng, xôn xao cõi lòng

Nghĩ mình cùng với vợ con

Ðói nghèo kiếp sống, héo hon cuộc đời

Máu tham nổi dậy trong người

Quên ân tình cũ, nuốt lời thề xưa

Y cười phản bội say sưa

Nhưng kìa phép lạ như vừa xảy ra

Mặt người chất phác hôm qua

Giờ đây gớm ghiếc xấu xa vô cùng.

*

Tên gian phản bội vào cung

Tâu Vua chỗ ở trong rừng của Nai.

Vua sai quân lính của Ngài

Bao vây bốn phía bên ngoài rừng hoang

ào ào chó dữ sủa vang

Kèn săn trổi giọng oang oang tiến vào

Thú rừng hoảng hốt lao xao

Nai hiền choàng tỉnh xiết bao ngỡ ngàng

Biết rằng trốn cũng muộn màng

Tay người hung ác bạo tàn xưa nay

Nai đang nghĩ ngợi, loay hoay

Thì bao quân lính tới ngay bên rồi

Vua, Quan cũng đã đến nơi

Vua nhìn Nai đẹp ngây người ngợi khen

Truyền không được bắn cung tên

Làm sao bắt sống Nai hiền về cung.

*

Mọi người chưa kịp vây lùng

Nai hiền tự đến thưa cùng Vua, Quan:

"Ai đưa Ngài đến non ngàn

Nơi tôi trú ẩn chốn hoang vu này?"

Vua nghe kinh ngạc lắm thay,

Chỉ tên phản bội đứng ngay sau Ngài:

"Hỡi Nai thần! Chính tên này

Ham tiền chỉ lối tới đây săn tìm!".

*

Mọi người cùng lúc quay nhìn

Rồi cùng một lúc kêu lên hãi hùng,

Mặt tên phản bội đưa đường

Chỉ trong khoảnh khắc vô cùng gớm ghê

Bao nhiêu máu mủ tràn trề

Khắp nơi lở loét khó bề nhận ra.

Nai thưa: "Mọi việc chẳng qua

Chỉ là quả báo diễn ra thật gần

Tên này bội nghĩa vong ân

Tham lam mờ mắt, bất nhân hại người!"

Rồi Nai kể rõ đầu đuôi

Chuyện mình cứu hắn chết trôi giữa dòng.

*

Nhà Vua nghe hiểu chuyện xong

Mắng tên phản bội: "Mi lòng tanh hôi

Mi làm ô uế danh Người

Mi không đáng sống trên đời làm chi!"

Vua giương cung xử bắn y

Nhưng Nai nhảy vội đứng che tên này

Nai thưa: "Tội hắn ngày nay

Kéo theo quả báo đến ngay đây rồi

Mặt y lở loét tanh hôi

Là điều trừng phạt một đời khó quên

Ngài tha cho hắn một phen!

Phần tôi xin đứng một bên chờ Ngài!".

*

Nhà Vua chợt thấy sáng ngời

Một vùng hỷ xả, một trời từ bi

Vua ban: "Ngươi hãy đi đi

Hỡi tên phản bội! Tha mi phen này

Ði cho khuất mắt ta ngay

Làm Người không đáng! Ðừng quay trở về!"

Tên kia hổ thẹn ê chề

Bước đi lầm lũi, kéo lê thân người

Lưng quay về phía mặt trời

Theo vùng bóng tối, vào nơi bùn lầy.

Vua nhìn Nai khẽ tỏ bày:

"Tự do xin trả từ đây cho Ngài!

Trẫm lòng kính phục lắm thay

Ngài đem chân lý gieo đầy nhân gian

Soi đường giác ngộ thênh thang

Tim này nguyền khắc lời vàng từ bi!".

Vua ra lệnh kéo quân đi

Núi rừng trở lại bốn bề bình yên.

*

Kể từ khi đó đêm đêm

Hiu hiu gió mát, êm đềm trăng thanh

Một bầy muông thú hiền lành

Quây quần trìu mến chung quanh Nai hiền

Như chờ nghe những lời thiền

Nghe lời giảng đạo giữa miền hoang vu.

(phỏng theo bản văn xuôi

của Huyền Thanh)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/05/2015(Xem: 5658)
Em đừng hỏi vì sao tôi cưới em Chỉ đơn giản bên em tôi thở được Đó là hai câu thơ của thầy tôi làm tặng người vợ thân yêu của mình khi thầy bị bệnh phải nhập viện.
07/05/2015(Xem: 5678)
Ngày còn đi làm, cứ mỗi lần đến ngày 13 thứ sáu, các bạn đồng nghiệp trong sở tôi kiêng cử dữ lắm, ai cũng cho đó là ngày xấu nhất trong năm. Tôi thì không tin, chỉ cười, cũng không phản đối lòng tin của bạn bè nhưng bây giờ tôi cũng đâm ra sợ ngày này vô cùng: 13 Thứ sáu - ngày Anh tôi ra đi thật quá bất ngờ và quá đau đớn!
02/05/2015(Xem: 3789)
Khi tôi gặp Thầy lần đầu tiên, tôi thật sự là một kẻ phàm phu tục tử có đầy đủ tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến, đã chẳng tu mà chỉ biết hú là giỏi. Mặc dù tôi được sinh ra từ một gia đình có tiếng là theo đạo Phật lâu đời, nhưng từ khi có sự hiểu biết, tôi thấy bà và mẹ chỉ đi chùa mỗi năm vài lần vào dịp lễ lớn, cũng lạy Phật, thắp hương, khấn vái sì sụp gì đó rồi… hết. Còn tôi thì sao, tôi bị sinh ra vào những năm sau cuộc chiến, tưởng là hòa bình lập lại thì dân giàu nước mạnh, tôn giáo được tự do phát triển không ngờ mọi việc hoàn toàn ngược lại, ăn còn không đủ no nói gì đến việc đi chùa nghe Pháp, đọc kinh. Tóm lại tôi hoàn toàn mù tịt về Phật Pháp.
02/05/2015(Xem: 4643)
Tôi gặp nàng tại Đại nhạc hội Việt Nam tổ chức tại Düsseldorf vào một mùa Giáng Sinh xa xưa nhưng không bao giờ quên được dù nàng lúc đó lẫn lộn giữa rừng người đông đảo. Nàng không xinh đẹp tuyệt trần, không ăn mặt lòe loẹt nổi bật, cũng không hoạt bát ồn ào gây sự chú ý của mọi người. Nhưng đối với tôi thì nàng thật đặc biệt với dáng vẻ đoan trang thùy mỵ, với đôi mắt dịu dàng và với sự im lặng của nàng trong một góc vắng của hội trường. Nàng đứng đó, tay cầm một cuốn sách nhỏ, vừa đọc vừa... gặm bánh mì, thỉnh thoảng lại ngước mắt lên nhìn xung quanh coi có gì “lạ” không rồi lại cắm đầu vào cuốn sách, cứ y như trong đó có chỉ chỗ giấu kho vàng vậy!
01/05/2015(Xem: 15027)
Được làm con Phật là điều vừa đơn giản, vừa hy hữu. Đơn giản, vì sinh ra trong một gia đình Phật giáo thì tự động theo cha mẹ đi chùa, lễ Phật, tin Phật ngay từ bé. Hy hữu, vì biết lấy Phật giáo làm lý tưởng đời mình và chọn sự thực hành Phật Pháp như là sinh hoạt nền tảng hàng ngày—không phải ai sinh ra trong gia đình đó cũng đều tin Phật từ nhỏ đến lớn, và nếu tin Phật, cũng không gì bảo đảm là hiểu Phật, thực hành đúng đắn con đường của Phật để gọi là con Phật chân chính.
23/04/2015(Xem: 3118)
Năm nay 2015 tôi có đến ba mùa Xuân. Đó là mùa Xuân của nước Đức, mùa Xuân của nước Nhật và mùa Xuân của Hoa Kỳ. Thông thường mùa Xuân bắt đầu vào cuối tháng 3 dương lịch và kéo dài ba tháng như vậy, để thuận với lẽ tuần hoàn của vạn hữu là Xuân, Hạ, Thu, Đông; nhưng cũng có nhiều nơi mỗi năm chỉ có hai mùa như quê tôi Việt Nam, là mùa mưa và mùa nắng. Trong khi đó Âu Châu, nhất là vùng Bắc Âu, mỗi năm cũng chỉ có hai mùa. Đó là mùa lạnh kéo dài nhiều khi đến 6 hay 7 tháng và mùa ấm chỉ có chừng 3 đến 4 tháng là cùng. Dĩ nhiên là sẽ không có mùa Hè và trời vào Thu lại nhanh lắm, để đón tiếp một mùa Đông băng giá lạnh lùng.
15/04/2015(Xem: 11281)
Một sớm mai nọ, tôi không nhớ ngày ta, ngày tây, chỉ nhớ đầu năm 1984. Buổi sáng hôm ấy đầy dáng Xuân cả đất trời Nam Hà, khi tôi và hằng trăm tù nhân chính trị trên đường đến hiện trường lao động ở dải đất dài, mà hai bên toàn là núi đá vôi cao, thấp trùng trùng, điệp điệp. Người địa phương Ba Sao gọi là THUNG.
31/03/2015(Xem: 18249)
Dianne Perry, (sau này được biết đến qua pháp danh Tây Tạng của cô là Tenzin Palmo) là một vị ni cô người Anh đầu tiên, đã ẩn cư thiền định suốt 12 năm trong một hang động cao 12.300 bộ trên dãy Hy Mã Lạp Sơn, cách ngăn khỏi thế giới trần tục bởi những rặng núi phủ đầy tuyết trắng quanh năm. Tenzin Palmo đã sống một mình và tu tập trong động tuyết này. Cô đã chạm trán với những thú rừng hoang dã, đã vượt qua những cơn lạnh khủng khiếp, những cái đói giết người, và những trận bão tuyết kinh hồn; cô tự trồng lấy thực phẩm và ngủ ngồi trong cái hộp gỗ rộng cỡ 3 bộ vuông (theo truyền thống Tây Tạng, các vị tu sĩ đều tọa thiền trong một cái hộp gỗ như vậy). Cô không bao giò ngủ nằm. Mục đích của Tenzin Palmo là chứng đạo trong hình tướng một người nữ.
18/03/2015(Xem: 6258)
Tôi sinh ra ở miền sông nước Nam Bộ của xứ Việt. Nhưng thật lạ, phải gần nửa đời tôi mới bắt đầu nhận ra mình vốn yêu sông nước. Tôi yêu quê từ những miền đất lạ mà mình đi qua, và tệ nhất khi đôi lúc chỉ là những nơi chốn xa ngái mịt mù chỉ nhìn thấy trong sách vở, phim ảnh. Và kỳ chưa, đó cũng là cách tôi yêu đạo Phật. Ăn cơm chùa từ bé, nhưng phải đợi đến những giây khắc nghiệt ngã, khốc liệt nhất bình sinh, tôi mới nhìn thấy được rõ ràng nụ cười vô lượng của đức Phật bất chợt hiện lên đâu đó cuối trời thống lụy.
05/03/2015(Xem: 3179)
Có những kỷ niệm tưởng rằng sẽ mờ nhạt theo tháng ngày tất tả, trôi xuôi đến tận cùng triền dốc của cơm áo xứ người. Nhưng không, mỗi khi trời đất đổi mùa thì lòng người lại bâng khuâng, ký ức lại hiện về rõ nét, dù đó là một khoảng thời gian đã qua, một ký ức đã xa... Chỉ còn lại trong tim nhưng cũng đủ xót xa lòng khi nhớ đến! Hình ảnh bà cụ già nua ốm yếu, ngồi cô đơn trong căn chòi tranh rách nát, vào một buổi chiều âm u buồn thảm vẫn còn đậm nét trong lòng tôi, nhớ đến là bồi hồi xao xuyến cả tâm can. Buổi chiều ở Đồng tháp Mười buồn quá sức, buồn đến não nuột xót xa, một chòi tranh nằm chơ vơ bên con lạch nước đục ngầu, không người qua lại, xung quanh chỉ có tiếng ếch nhái than van!
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]