Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

09. Trả về

16/09/201100:39(Xem: 7845)
09. Trả về

Thích Nhất Hạnh
TÌNH NGƯỜI
Truyện của tác giả khi còn là chú điệu
Lá Bối xuất bản

9. Trả về

Có những câu chuyện về tổ Nhất Định mà sư thúc tôi kể lại với một giọng rất kính cẩn. Hòa thượng Nhất Định là một vị cao tăng, một vị thiền sư ngày trước đã là tỵ tổ khai sơn sáng lập ra chùa của chúng tôi. Chính sư thúc cũng không được trông thấy tổ, chỉ nghe truyền lại mà thôi. Làm sao sư thúc có thể trông thấy tổ được khi tổ sống trước đây đã một trăm mấy chục năm rồi.

Hồi đó, tổ lên núi Dương Xuân Thượng này, chọn một chỗ thanh tĩnh quang đãng (bây giờ gần Lăng Viện của chùa) để dựng một cái am tịnh tu và nuôi bà mẹ già. Am ấy được Ngài đặt tên là An Dưỡng Am. Ngài đã theo đúng lời Phật dạy: sống vào thời đại không có Phật thì phụng sự cha mẹ cũng có công đức như phụng sự Phật. Là thiền sư nhưng Ngài vẫn có thể lo lắng chăm sóc cho mẹ già. Định lực của Ngài rất lớn, và Ngài bất chấp những chi tiết lặt vặt. Một hôm thân mẫu bệnh, cần ăn một món bổ dưỡng, Biết rằng trước mẹ thường ưa cháo cá tươi. Ngài xuống tận chợ mua một con cá tự tay nếu cháo cho mẹ. Mọi người trông thấy Ngài xách con cá đi ngoài đường lấy làm ngạc nhiên nhưng không dám nói năng vì biết rằng là cao tăng ngài không thể làm việc gì trái được. Mà dù người ta không hiểu, có đàm tiếu thì Ngài cũng vẫn thản nhiên. Sự thản nhiên ấy chứng tỏ rằng Ngài biết Ngài đang làm việc gì và bất chấp tất cả những dư luận sai lạc vô minh.

Riêng tôi khi nghe kể câu chuyện ấy tôi sung sướng đến sa nước mắt. Một thái độ thật phhóng khoáng giải thoát không hề bị giáo điều ràng buộc. Một bài thơ tình thương mà kẻ cố chấp không bao giờ làm nổi, không bao giờ hiểu nổi. Sau này An Dưỡng Am đã trở thành một cảnh chùa lớn và được vua Tự Đức, một vị vua cũng rất có hiếu với mẹ, sắc phong là “Sắc Tứ Từ Hiếu Tự”. Hòa thượng đã tịch vào tháng mười năm Đinh Vị.

Thầy tôi cũng hay nhắc đến Hải Thiệu, vị tổ mà thầy may mắn được gặp. Hòa thượng Hải Thiệu cũng là một thiền sư danh tiếng, lúc sinh thời có phát mười lăm lời đại nguyện. Mười lăm dại nguyện ấy hiện được khắc lên tấm bia dựng trước bảo tháp Ngài. Ngài có hai hàng lông mày rậm và dài rất đẹp; chân dung của Ngài còn được truyền lại. Hồi Ngài đã cao niên, hai mí mắt của Ngài sụp xuống và che khuất hai mắt Ngài cũng như hai tấm rèm che hai cửa sổ. Mỗi khi muốn nhìn một vật gì, Ngài phải vén mí mắt ra để nhìn. Xong rồi Ngài đậy mí mắt lại, nhưng thường Ngài ít hay mở mí mắt để nhìn lắm. Ngài chỉ cần nghe là đủ. Khi nào có một người xa đi về, Ngài thường vén mi để nhìn cho rõ mặt, rồi gọi các Chú pha nước tiếp đãi.

Có một hôm chú điệu Phước tám tuổi không vâng lời Ngài. Đây cũng thoe lời sư thúc kể lại. Ngài bảo điệu đi kiếm cho Ngài một cây roi rồi bắt điệu nằm xuống. Điệu Phước biết là Ngài không trông thấy điệu nên khi Ngài đánh cây roi xuống, điệu tránh vào phía trong cho nên cây roi chỉ quất trên tấm nệm mà thôi. Ngài đánh điệu hai roi, và hai lần điệu đều tránh được cả hai. Tuy vậy Ngài vẫn không hay, và sau khi phạt xong, Ngài bảo: “Thôi cho điệu xuống. Từ đây về sau không được làm trái lời”; và bảo điệu đem cất cây roi đi. Chiều hôm ấy Phước lên cơn nóng, uống thuốc không bớt. Hai ba hôm sau cũng vậy. Sau hỏi ra mới biết là điệu đã dại dột tránh hai roi của Ngài. Một Chú hoảng hồn, mặc áo tràng lên lạy, kể lại đầu đuôi câu chuyện hầu Ngài và xin Ngài đại xá cho đứa bé. Nghe xong Ngài hỏi: “thiệt vậy sao?” và nói: “thôi Chú xuống nấu cháo cho điệu ấy ăn đi”. Chú lạy tạ Ngài và sau khi ăn cháo, điệu Phước bắt đầu thuyên giảm. Từ đó ai cũng sợ uy đức của Ngài. Tôi hỏi thử ý kiến di Tư về chuyện ấy:

- Không lý Ngài từ bi đến thế mà lại phạt cho đứa trẻ con phải ốm đau chỉ vì nó dại dột sao?

- Không phải mô, chú ơi. Ngài có biết điệu Phước dại dột mô mà phạt. Tại vì điệu Phước xúc phạm đến cái đức của Ngài nên long thần hộ pháp mới quở điệu đó chứ.

Tôi thì tôi ở thuyết “phạm đức” của dì hơn là cái thuyết long thần hộ pháp quở phạt. Bởi vì tôi nghĩ long thần hộ pháp cũng đâu đến nỗi trẻ con để đi quở phạt một đứa trẻ con tám tuổi. Những lực lượng vô biên của Vô thức và của tâm linh đủ để tạo ra những hiện tượng như thế.

Có một buổi trưa nắng chang chang, vua Thành Thái đến chùa hầu thăm Ngài. Đức vua đi tới bằng đường lộ, dặn xe và người tùy tùng đợi ở ngoài và đi bộ nửa cây số qua đồi thông vào chùa. Tất cả các thầy đều vắng mặt hôm ấy. Các dì cũng về quê. Các điệu và các chú làm việc sau vườn không ai hay vua đến. Vua đi một mình từ tam quan lên hồ sen rồi đi theo con đường dẫn từ hồ sen lên nhà trai. Rồi vua đi vào Lạc Nghĩa Đường. Thấy vắng teo vua liền đi nhè nhẹ vào phương trượng của hòa thượng. Ngài đang tham thiền trên bức phản thấp có kê chiếc hộc tợ có bốn chân cong cong. Ngài không thấy vua. Nhà vua ngồi xuống đất, ngay dưới chân Ngài, và một lát sau mới đặt nhẹ tay trên đầu gối Ngài. Ngài hỏi: “Ai đấy”; nhà vua đáp: “Bạch Ngài, vua đến thăm Ngài đây”. Ngài nở nụ cười và đưa tay nắm ấy tay vua. Ngài nói nhỏ: “Hoàng thượng đấy hả. Rước ngài ngồi chơi, để tôi gọi mấy chú điệu đem củ mì lên để ngài xơi”.

Vào khoảng ba giờ trưa, các dì thường hay nấu một nồi khoai mì và khoai lang cho các điệu và các chú. Bữa ăn giản dị đó gọi là “bữa lỡ” để cho những người phải làm việc buổi chiều dùng trước khi ra vườn. Thường thường các dì hay chọn một củ sắn mì mềm nhất và dẻo nhất để trên một cái đĩa con đem dâng hòa thượng.

Tinh thần trọng Tăng của vua Thành Thái đã đáng quý mà lề lối đối với các bậc quyền quý của hòa thượng lại càng đáng quý hơn. Thật không có cái gì có tính cách dân chủ hơn cái cảnh tượng một ông vua đến thăm một ông thầy tu và được ông thầy tu mời ăn củ mì. Câu chuyện đó chính hòa thượng kể lại một cách giản dị cho đại chúng nghe và chúng tôi chỉ được nghe truyền lại. Sư thúc cũng xác định là đã nghe chuyện ấy.

Bàn đến tính cách bình đẳng và dân chủ trong Phật giáo, chú Mãn và tôi rất sung sướng thấy những đặc tính quý báu ấy của xã hội là những đặc tính của chính đạo Phật nữa. Thật không có tôn giáo nào cho phép con người xem mình bình đẳng với đức giáo chủ và nền tôn giáo họ theo, đứng về phương diện thể tính và khả năng tương sinh, tương duyên thật quả là thích hợp với tinh thần dân chủ của xã hội mới, bởi vì trong nền tín ngưỡng đó, chính con người định đoạt tương lai của mình và chịu trách nhiệm về hành động hoặc xây dựng hoặc phá hoại của mình. Hạnh phúc của con người là do chính con người tạo ra, và đức Phật không phải là một đấng chúa tể vạn năng mà chỉ là một con người giác ngộ hoàn toàn có đủ khả năng để soi sáng con đường của xã hội con người – tức là xã hội của Ngài. Quý nhất là đặc điểm tôn trọng tự do tư tưởng trong đạo Phật. Đạo Phật, về phương diện tri thức, nhắm đến sự phá trừ cố chấp và cuồng tín, cho nên không dung túng được thái độ độc tài về tư tưởng. Anh có thể đọc kinh điển và có thể có những khám phá mới lạ về tâm linh. Anh có thể công bố những sở đắc của anh ma không sợ một quyền uy nào lên án cả, dù là quyền uy của giáo hội, hơn nữa quyền uy của giáo hội chỉ có nghĩa là đức độ của giáo hội. Khi ấy, vị đệ tử sụp lạy một vị hòa thượng, động cơ của sự sụp lạy ấy không phải do luật lệ và lễ nghi, cũng không phải do sự sợ sệt uy quyền, mà chính là do sự cảm mến đức độ của vị hòa thượng. Không những anh có thể viết sách để phổ biến chủ trương của anh, anh lại còn có quyền dựng ra một tông phái mới nữa nếu quả thực khám phá của anh khơi dậy được một nguồn mạch sinh khí của đạo pháp. Dù những chủ trương của anh có chống với chủ trương các tông phái hiện hành, cũng không ai có quyền lên án và trục xuất anh; và cũng vì vậy cho nên khu vườn văn học triết học của đạo Phật giàu có một cách dị thường. Có đủ trăm ngàn hoa thơm cỏ lạ. Xét cho lỹ, chỉ có những khám phá sâu sắc và đích thực mới tạo nên được sinh khí của đạo pháp, còn những lý thuyết viễn vông chẳng bao giờ bắt gốc được trong khu vườn đạo Phật. Vì thế dù có mang muôn ngàn sắc thái dị biệt, các học phái và các hệ thống giáo lý đều chỉ là những khía cạnh khám phá của cùng một thực thể. Thực thể ấy là dòng sinh hoạt đạo pháp.

Cha mẹ thường tỏ bày thắc mắc:

- Em không hiểu sao một nền đạo học cao siêu như đạo Phật mà không được giới trí thức học hỏi. Giới trí thức hình như ít ai có sở đắc về đạo Phật; còn đạo Phật trong quần chúng bình dân thì đã không phản chiếu được đạo Phật đúng mức mà lại còn trà trộn vào những mê tín của Thần Lão. Làm sao hả chú, làm sao để đem đạo Phật trả lại cho giới trí thức?

- Chú cũng biết ở các triều Lý Trần Việt Nam, đạo Phật đã thịnh hành lắm, phần lớn giới trí thức trong nước đều là các nhà Phật học; và đạo Phật đã đóng góp thật đáng kể cho thời đại; nhưng mà trí thức Việt Nam sa đó theo cái học khoa cử và bỏ đạo Phật lại cho quần chúng bình dân nắm giữ. Do đó mà trong đạo Phật có chen vào me tín dị đoan và đạo Phật bị hiểu sai lạc là đàng khác.

- Em thấy những tu viện như thế này có thể phản chiếu được tinh thần sinh hoạt tâm linh của đạo Phật, nhưng ít ai tiếp xúc với các tu viện để thấy được điều đó.

- Cũng vì thế nên ở Huế mới có Phật học đường Tây Thiên và Báo Quốc, ở trong nam có Phật học đường của Lưỡng Xuyên Phật học hội, ở ngoài Bắc có hội Phật giáo Bắc Kỳ. Các nhà hữu tâm đang cố gắng đem đạo Phật trở về trong cuộc đời, và chính học tăng như anh em ta phải mang trọng trách nặng nhất. Chừng nào chúng ta tốt nghiệp Phật học đường báo Quốc, chừng đó chúng mình sẽ cố gắng đem đạo Phật tới cho thanh niên. Chúng ta sẽ có những trường học và những bệnh viện Phật giáo như ngày xưa ở Lý Trần.

- Em thấy con đường xa vời vợi, nhưng mà em rất được khích lệ bởi lý tưởng duy tân đạo Phật.

Tôi trầm ngâm nói chậm rãi:

- Công cuộc duy tân đạo Phật đòi hỏi một cuộc cách mạng về giáo lý, giáo chế, và về giáo sản nữa. Chừng nào các Phật học đường đào tạo được một số người đáng kể, chừng đó cuộc duy tân mới được thực hiện. Chú xem, làm sao không đem đạo Phật trở về cuộc đời cho được. Chiến tranh đang gây thảm họa. Sự chia rẽ thù hằn lên tới cao độ. Bao nhiêu tiếng kêu đau thương của chết chóc, đói rách, tù đày. Chúng ta làm sao an tâm sống mãi những ngày êm ả trong tu viện?

Mỗi khi đàm luận đến tương lai là chúng tôi thấy nao nao trong dạ. Con đường đẹp đẽ và nhiều gai góc. Vốn liếng chúng tôi chỉ là hy vọng, chỉ là thiện chí, là một cuốn Tỳ Ni, một cuốn Uy nghi, một cuốn Cảnh sách và những năm trời học ở Phật học đường báo Quốc. Chúng tôi có thể làm được gì chăng?

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/11/2017(Xem: 4417)
Hôm nay ngày 1.11 tôi viết bài này chỉ nhằm kể một câu chuyện thực tế lịch sử; vì đâu, nguyên nhân, tôi xin miễn đào sâu vì cũng không có đủ hiểu biết, thời gian và cũng không phải mục đích tôi muốn chia sẻ ở đây! Ba mẹ tôi đều sinh ra và lớn lên tại Huế, học xong tú tài ở trường Khải Định năm 1955 (tên lúc bấy giờ của trường Quốc Học Huế). Giai đoạn đó đất nước vừa chia đôi, TT Ngô Đình Diệm vừa chấp chính. Ông Diệm xuất thân từ gia đình quan lại, bản thân ông cũng từng đỗ đạt ra làm thượng thư như cha của ông là Ngô Đình Khả, anh là Ngô Đình Khôi, nên rất trọng bằng cấp, học vấn như lối suy nghĩ của tầng lớp trí thức nho học thời bấy giờ. Vì vậy ông Diệm rất ưu tiên cho ngành giáo dục, đặc biệt trong giai đoạn sau 1954 khi người Pháp rời khỏi VN, cần xây dựng một nền giáo dục bản xứ thay thế cho nền giáo dục thuộc địa của Pháp.
19/10/2017(Xem: 14356)
Truyện thơ: Hoàng Tử Khéo Nói và Con Thủy Quái, (thi hóa, phỏng dịch theo bản văn xuôi PRINCE GOODSPEAKER AND THE WATER DEMON của Ven. Kurunegoda Piyatissa & Tod Anderson) , Ngày xưa có một ông vua Trị vì đất nước rất ư công bằng Cạnh bên hoàng hậu đoan trang Vua yêu, vua quý, chứa chan hương tình. Thế rồi hoàng hậu hạ sinh Một trai kháu khỉnh đẹp xinh vô cùng Nhà vua sung sướng vui mừng Nghĩ suy chọn lựa tìm đường đặt tên Mong cho con lúc lớn lên Vẻ vang ngôi vị, êm đềm tương lai Vua bèn đặt tên con trai Hoàng tử Khéo Nói, nhiều tài mai sau.
06/09/2017(Xem: 7482)
Hạt hồ đào (walnut) ăn rất ngon nhưng cái vỏ của nó rất cứng. Ở Tây phương người ta có chế ra một cái kẹp sắt, chỉ cần bóp mạnh cái kẹp thì vỏ hồ đào vỡ và ta có thể thưởng thức ngay hương vị thơm ngọt và bùi của hồ đào. Có những kẻ trong chúng ta đã từng bị lúng túng trong khi đọc những bài kệ Trung Quán Luận. Nhưng trong hai mùa Đông năm 2001-2002 và 2002-2003, thầy của chúng tôi là thiền sư Nhất Hạnh đã giảng giải cho chúng tôi nghe và hiểu được những bài kệ ấy một cách dễ dàng và thích thú. Sách này ghi lại những bài giảng của thầy về sáu phẩm căn bản của Trung Quán Luận, các phẩm Nhân Duyên, Khứ Lai, Tứ Đế, Hữu Vô, Nhiên Khả Nhiên và Niết Bàn
31/08/2017(Xem: 5109)
Vào một buổi tối mùa đông cách đây hơn 30 năm, tại thủ đô Washington của nước Mỹ, một quý bà không may đánh rơi chiếc cặp tài liệu trong bệnh viện. Chồng của quý bà là một thương nhân giàu có. Ông đã vội vã quay lại bệnh viện giữa đêm hôm để tìm kiếm, bởi vì trong chiếc cặp không chỉ là rất nhiều tiền mà còn có cả một tập tài liệu mang thông tin mật của thị trường tài chính. Vị thương nhân đang đảo mắt tìm kiếm thì thấy một đứa trẻ rách rưới đứng ở hành lang bệnh viện. Cô bé đứng dựa vào tường, người vẫn còn co rúm trong bộ quần áo mỏng manh. Và trên tay cô bé chính là chiếc cặp mà vợ ông đánh mất.
29/08/2017(Xem: 6859)
Khi tôi 26 tuổi, tôi hạ sinh một bé trai kháu khỉnh. George có mái tóc đen, mắt xanh và cặp lông nheo dài tôi chưa bao giờ thấy ai có được như vậy. Cu cậu bắt đầu nói khi được chín tháng, đi được khi được mười tháng và có thể bay nhảy khi được hai tuổi. Cậu bé là niềm vui của tôi, và tôi yêu thương thằng bé hơn cả tình thương mà tôi có. Đứa Con Trai Hoàn Hảo, Sharon Drew Morgan, Quảng Tịnh dịch
21/08/2017(Xem: 4735)
Tại Sao Tôi Đi Tu ? Thích Từ Lực và Trần Mạnh Toàn, Thường ngày, cảm giác của người bị phong tỏa, rình rập và đe dọa từng giây từng phút khiến anh thấy như quên mất con người riêng của mình. Nỗi buồn, vui, rung động trước ngọn gió cuối năm như đã xa rời anh. Tiếng súng và trọng pháo vắng hẳn trong buổi chiều hưu chiến. Anh không nghĩ có thể tạm quên được sự nguy hiểm, báo động thường xuyên nhưng sự vắng lặng của chiều cuối năm khiến cho những xúc động trong lòng dậy lên như âm binh được điều động. Ngọn gió nơi chân đồi bỗng làm anh thấy gờn gợn đôi tay trần. Ngọn gió y hệt như lúc vi vu bên hàng chè trước nhà vào chiều ba mươi tết, lúc mà anh giúp mẹ đặt nồi bánh chưng lên bếp lửa. “Tết ni được no rồi.” Bấy giờ, anh chẳng để ý để hiểu hết câu nói của mẹ, vừa nói, đôi tay chai sạn vừa đẩy mấy gộc tre vào lòng bếp.
09/08/2017(Xem: 4317)
Tôi về ở trong appartement này đã hơn 20 năm, một khoảng thời gian dài đủ để chứng kiến bao cảnh tang thương biến đổi của cuộc đời. Bóng xế hoàng hôn ảm đạm dàn xuống chung cư này nhiều hơn là ánh sáng rực rỡ của những buổi bình minh... Những năm đầu khi tôi mới đến, vợ chồng ông Damhart ở tầng 1 là một cặp vợ chồng đã được nhiều người yêu mến về tính tình cởi mở, luôn luôn hòa nhã với mọi người. Bà rất siêng năng mẫu mực, làm việc nhà không biết mỏi mệt, lúc nào cũng mang sẵn một cái tablier trước ngực. Tôi có cảm tưởng như công việc nhà của Bà làm không bao giờ hết được. Và gặp ai cũng vui vẻ dừng lại, hỏi thăm đôi ba câu rồi mới chịu đi. Ông chồng lại rất vui tính với nụ cười hiền hòa thật dễ thương. Rồi dần dà, Bà bị đau, không còn nhớ gì, đi gõ cửa hết nhà này đến nhà khác, có khi quên cả lối về! Cuối cùng thì không còn đi được n
28/07/2017(Xem: 4483)
Sau những cơn nắng luộc da vào Hạ, trời Hà Nội có vẻ dịu hẳn, phố phừng dập dìu xe cộ. Căn nhà nằm sâu trong đoạn đường vừa khai phóng, đối diện với một cao ốc, tầng dưới là siêu thị đơn điệu vài mặt hàng không đủ cho khách vãng lai dán mắt nhìn. Căn nhà của cô Chung, trưởng đoàn từ thiện, là cứ điểm để nhóm Từ Tâm - Hiểu và Thương hàng năm vê đây làm nơi phát xuất chuyến lữ hành mãi tận vùng Tây Bắc, cận biên Việt-Trung. Gia Lâm là một huyện ngoại thành phía đông của thành phố Hà Nội, cách trung tâm thành phố 8 km. Đây là cửa ngõ để đi sang các tỉnh thành phía Đông như Hải Phòng, Hải Dương, Hưng Yên...
04/07/2017(Xem: 10614)
Từ hai ba tháng qua, hầu như ngày nào tôi cũng dành thì giờ ôn lại các bài học của Bụt Thích Ca trong tập phim Buddha, do nhà sản xuất Modi đưa lên mạng Youtube từ năm 2016. Khi được bạn bè giới thiệu cuốn phim này, tôi coi mấy đoạn đầu, rồi nhảy cách tới đoạn Buddha thành đạo (tập 34), và coi tiếp sau đó tập 41 tả cảnh Buddha về thánh Ca Tỳ La Vệ thăm gia đình. Đoạn 41 này rất hay, đạo diễn và tài tử đều diễn tảđược tình cảm của Buddha và bà vợ mà ông rất thương yêu trước khi đi tu.
02/07/2017(Xem: 5914)
Tống Văn đời Đường được bổ nhiệm làm tri phủ Tô Châu. Là người nổi tiếng thanh liêm, chính trực nhưng lại trọng Nho, khinh Thích. Khi về trấn nhậm Tô Châu nghe nói sự cụ Chùa Hàn Sơn là bậc tu hành đắc đạo nhưng không tin. Tống Văn lý luận rằng: Tụng kinh gõ mõ, lóc cóc leng keng ai làm chẳng được. Người tu hành không quyền thế, không binh lính trong tay, không hiền lành thì hung dữ với ai. Lại nữa, có tỏ ra hiền lành thì thập phương mới cúng kiếng chứ hung dữ thì chỉ có nước bỏ chùa đi ăn mày…cho nên tìm cách thử.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]