Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

23. Nhất tự vi sư

05/09/201103:08(Xem: 3680)
23. Nhất tự vi sư

HÀNH TRÌNH VỀ PHƯƠNG ĐÔNG
Huệ Trân 2008

Nhất tự vi sư

“Nhất tự vi sư. Bán tự vi sư”. Ai từng cắp sách đi học, dù có học chữ Hán hay không, thế nào cũng từng được một lần nghe câu đó. “Một chữ cũng là thầy. Nửa chữ cũng là thầy”, ý nói, người dạy ta, dù ít dù nhiều, ta đều phải tôn kính là thầy.

Thuở xưa, khi còn là thời của những cụ đồ nho, trao truyền chữ Hán cho học trò, thầy thường nghiêm minh lắm! Với lứa học trò nhỏ, lớp học không thể thiếu cái roi mây để răn đe những trò lười biếng. Với lớp tuổi lớn hơn chút thì cái roi mây dùng để đập mạnh xuống sàn, cùng với tiếng quát “Ra kia, quỳ xuống!” khi trò không thuộc bài! Thầy càng nghiêm khắc thì trò càng mau tiến bộ, và cha mẹ học trò thường thành tâm, khúm núm ôm trái dưa to nhất giàn, bó rau tươi nhất vườn, củ khoai ngọt nhất luống, mà họ chăm sóc, chờ ngày mang biếu thầy để tỏ lòng biết ơn.

Thời đó đã xa, ơn nghĩa và tình thầy trò nay đã khác, do môi trường và hoàn cảnh nên hình thức biểu lộ cũng khác theo.

Ấy thế mà trong thời gian an cư kiết đông ở Làng Mai, chúng tôi được sống lại với tình thầy trò xa xưa ấy.

Một, trong ba vị ni sư được mời từ Việt Nam sang dự Đại Giới Đàn là sư thầy Đàm Nguyện đã tình nguyện dạy chữ Hán cho những ai muốn học. Thời khóa của chúng tôi đã dầy kín nên muốn dự lớp này, chúng tôi phải thu xếp để có mấy tiếng đồng hồ vào sáng thứ hai, tức là ngày-làm-biếng, và buổi chiều thứ năm, sau khi hoàn tất ngày-quán-niệm.

Thầy đã sẵn sàng dạy, lý nào trò lại chưa sẵn sàng học. Lớp học này, cả thầy lẫn trò đều tự nguyện nên thoải mái lắm!

Địa điểm thầy trò cùng đồng ý là thiền đường Mây Thong Dong, ở trên lầu, xa khu nhà ăn, nhà bếp nên rất yên tĩnh.

Buổi học đầu có khoảng hơn hai mươi sư cô, như sư cô Trình Nghiêm, Nhẫn Nghiêm, Khiết Nghiêm, Trang Nghiêm, Thượng Nghiêm, Tạng Nghiêm, Hành Nghiêm, Hướng Nghiêm, Duệ Nghiêm, Huệ Hạnh, Liên Thanh v.v… Chúng tôi trải bồ đoàn, ngồi ngay ngắn, ôm tập, bút rồi nhìn nhau. Học chữ Hán, chắc chắn phải học viết nữa, không có bàn, làm sao viết? Chữ Việt còn viết thảo, viết ngoáy được chứ chữ Hán chưa biết đâu vào đâu mà viết ngoáy, chỉ thiếu hay sai một nét là sai hẳn nghĩa, nhiều hy vọng ăn roi mây ngay!

Vấn đề bảng thì dễ hơn vì chúng tôi có thể xử dụng cái bảng nhỏ, vẫn dùng để ghi những thông báo sinh hoạt. Cái bút để Sư Thầy viết bài cũng là loại bút mực dùng cho loại bảng đó. Nghĩa là lớp chữ Hán tùy cơ ứng biến, có gì xài nấy! Tội nghiệp Sư Thầy, khi viết bài cho trò, thầy gần như phải quỳ xuống vì cái bảng chỉ có thể kê trên hai cái ghế, chứ kê cao hơn cho vừa tầm người đứng thì không an toàn.

Buổi đầu tiên, tôi tưởng sẽ được học câu “Nhân tri sơ là sờ tí mẹ. Tính bản thiện là miệng muốn ăn”, nhưng không phải! Bài đầu tiên là học đọc và viết từ một đến mười, rồi sẽ suy ra từ mười một đến mười chín, rồi từ hai mươi đến chín mươi chín, rồi một trăm, một ngàn, một vạn, một ức …

Học trò phấn khởi lắm, vì cảm thấy tương đối dễ. Nhất là một, nhị là hai, tam là ba, thập nhất là mười một, thập nhị là mười hai, nhị thập là hai mươi, tam thập là ba mươi, cửu thập là chín mươi….

Khi Sư Thầy viết xong bài lên bảng, thầy phán:

- Cần cái thước dài.

Chúng tôi nhìn nhau, trong mắt ai cũng có hình bóng cái roi mây. Sợ quá! Có lẽ, cũng tâm trạng này nên sư cô Trình Nghiêm chạy quanh một lúc rồi mang về một cái que… ngắn ngủn! Sư Thầy bảo:

- Không được! Phải dài hơn mới chỉ từng chữ cho mà đọc được.

À, ra thế, cái thước dài để chỉ chữ cho đọc chứ không phải để đánh cho đau. Yên tâm thế rồi, sư cô Liên Thanh nhanh nhẹn đứng dậy, tìm ra ngay một cái thước dài, không khó khăn gì!

Sư Thầy chỉ thước vào từng chữ, trò đọc theo thầy, vang vang thiền đường Mây Thong Dong. Lúc đó, nếu có đám mây nào bay ngang, chắc mây cũng cảm thấy hào hứng mà đọc theo.

Khi bắt đầu chép bài trên bảng vào tập riêng, chúng tôi giải quyết vấn đề bàn viết bằng cách quỳ nửa người trên sàn để cái sàn trở thành cái bàn thì mới viết được. Khi nhìn chúng tôi hý hoáy, bặm môi, trợn mắt viết trong tư thế như vậy, chắc Sư Thầy buồn cười và cảm động lắm!

Đang viết ngon lành được nửa bài thì tôi bỗng có cảm tưởng cái lưng tôi đang được sư cô ngồi sau biến chế thành… cái bàn! Ối trời ơi, thật là một sáng kiến độc đáo.

- Thì đằng nào sư cô cũng đang nằm bò rồi, cái lưng để uổng làm chi, trở thành cái bàn có ích lợi hơn không?

Nghe hữu lý như thế, cái lưng nào phía trước mà từ chối thì thật là… vô lý! Nên dãy lưng của học trò hàng đầu, lập tức thành bàn viết của học trò hàng thứ hai; và dãy lưng hàng thứ hai trở thành bàn viết của học trò hàng thứ ba. Chỉ học trò ngồi hàng đầu là phải… hy sinh thôi! Tôi ở trong đoàn người dũng cảm hy sinh này vì đôi mắt đã mơ huyền (mờ), luôn ngồi phía trước để nhìn cho rõ chữ.

Rất tiếc, chúng tôi không mang máy hình lên lớp học, chứ không thì thầy Pháp Liệu thế nào cũng có hình ảnh độc đáo này cho Lá Thư Làng Mai.

Buổi học đầu, tương đối chữ không rắc rối lắm, vậy mà cũng có lúc thầy chỉ chữ nọ, chúng tôi xướng chữ kia! Đọc sai mà còn cười ầm lên! Sư Thầy bèn cảnh cáo:

- Hôm nay là buổi đầu tiên, cho cười. Từ buổi học sau là phải hết sức nghiêm túc, có nghiêm, chữ mới vào.

Quả thật, chúng tôi thuộc loại “chưa thấy quan tài, chưa đổ lệ”. Nghe thầy răn thế thì dạ dạ, vâng vâng nhưng buổi học sau, chữ và nghĩa đều khó hơn, tha hồ mà lộn chữ nọ ra chữ kia, mà đã đọc sai thì tự cảm thấy buồn cười lắm, không thể nào nín được! (Những lúc đó, chắc sư cô Liên Thanh thầm hối hận, sao lại tìm cây thước dài và to vậy? Nếu phải ăn đòn, chắc cũng thấm thía đây!)

Chúng tôi tưởng lớp học tình nguyện thì cứ tùy duyên, học được bao nhiêu hay bấy nhiêu thôi, nhưng với kinh nghiệm từng giảng dạy, Sư Thầy khuyên là phải tự nghiêm túc với mình, đừng nghĩ đây là môn phụ thì mới cố gắng và quyết tâm học. Đằng nào cũng bỏ những thời giờ hiếm hoi để lên đây, chớ lơ là mà uổng phí.

Sư Thầy rất thương yêu mà nhắc nhở như thế nhưng môn học này quá mới mẻ đối với đa số chúng tôi nên tự nhủ cách mấy cũng không thể không cười khi Sư Thầy chỉ chữ Hoàn là Viên mà trò lại xướng Cửu là Lâu; hoặc Chỉ là Chưng lại trả lời thành Phạp là Thiếu! Rồi còn phải tập viết, thầy viết mẫu cho hai giòng vào tập của mỗi người, phải tập viết đầy trang, những chữ ấy và nộp vào buổi học sau để thầy cho điểm. Trong lớp, sư cô Chân Trang Nghiêm được điểm cao nhất là 6 điểm. Tôi cũng được Sư Thầy cho 6 điểm nhưng suy nghĩ lại, thầy bảo “Đưa tập đây” rồi thầy vừa sửa số 6 thành số 5, vừa nói “Chưa được, 5 điểm thôi!” Cũng có sư cô nộp bài, thầy bảo “Viết xấu quá, không có điểm! Về viết lại đi, tuần sau nộp!”. Tôi không dám điểm danh những sư cô nào không có điểm, sợ mai kia mốt nọ gặp lại nhau, các sư cô sẽ trách “Ai hỏi mà khai kỹ vậy?” (Hi! Hi! Hi! Cái tật hay đùa của con, các sư cô Xóm Mới biết rồi mà!)

Chỉ qua mấy buổi học, chúng tôi đã được Sư Thầy dạy cho biết đại cương một số chữ căn bản ở Bộ Nhất, Bộ Cổn, Bộ Chủ, Bộ Phiệt, Bộ Ất, Bộ Quyết, Bộ Nhị, Bộ Đầu, Bộ Nhân, Bộ Nhập, Bộ Bát. Mỗi buổi học mỗi khó hơn và chúng tôi phải tranh thủ thêm nhiều thì giờ hơn để học bài và tập viết. Hình thức trả bài cũng… đau tim lắm! Sư Thầy gọi đích danh từng trò lên bảng, đọc nghĩa bằng tiếng Hán và tiếng Việt bài học hôm trước xong, viết chữ lên bảng rồi tự cầm thước, chỉ chữ tới đâu, đọc tới đó! Có khi viết được chữ đúng thì lại đọc sai, hoặc ngược lại! Chúng tôi cố gắng “Leo đồi thế kỷ” (danh từ của Sư Ông Làng Mai) cho đến thời gian các sư cô bắt đầu phải chuẩn bị cho những ngày Lễ, Tết như Lễ giáng sinh, Tết dương lịch, Tết âm lịch, thì chúng tôi đành thưa với thầy xin… xuống đồi vì nhiều sư cô không thể tìm đâu ra thì giờ để học bài nữa! Riêng tôi, không tham gia một tiết mục văn nghệ nào trong các ngày lễ ấy (vì biết gì đâu mà tham gia), tiếc rẻ lớp học, nên ôm tập tới trước phòng Sư Thầy, rụt rè gõ cửa để… xin chữ. Sư Thầy hoan hỷ lắm, mở rộng cửa, bảo:

- Sư cô Huệ Trân hả? Vào đây, nào, muốn gì đây?

- Thưa Sư Thầy, xin Sư Thầy cho con thêm ít chữ để con tự học. Con không phải tập văn nghệ nên con cũng có chút thì giờ học tiếp. Nhưng mà, Sư Thầy có bận không?

Sư Thầy cười rất tươi và rất từ bi:

- Tôi mà bận gì! tới đây được Sư Ông nuôi ngày ba bữa, có phải làm gì đâu!

Tất nhiên, Sư Thầy nói thế cho vui chứ sự hiện diện của quý ni sư nơi đây là những bài-pháp-sống cho hàng hậu học, vô giá và vô hạn.

Có lẽ vị thầy nào gặp đứa học trò muốn học cũng hết lòng nâng đỡ. Tôi là đứa học trò dở, nhưng muốn học nên trong cuốn tập mầu xanh mua ở quán sách Xóm Mới đã được Sư Thầy viết đầy kín gần mười trang, chữ Hán bằng mực đỏ, nghĩa Hán Việt bằng mực xanh cho dễ thấy.

Khi tới nhận lại tập, tôi hoa cả mắt, không biết bao giờ mới thuộc nổi ngần này chữ! Vậy mà, sau khi nhận tách trà, Sư Thầy thản nhiên phán rằng:

- Về học đi, rồi hôm nào sang đây trả bài nhé!

Tôi nghe tiếng “Dạ” của mình như có nắm sỏi nhỏ, lăn lạo xạo trong cuống họng. Để trốn trả bài chữ Hán, chắc phải chạy sang Tầu mất thôi!

Ngày tạm biệt Sư Thầy, về lại Hoa Kỳ, tôi quỳ xuống, toan đảnh lễ tam bái để tỏ lòng biết ơn, nhưng Sư Thầy và ni sư Từ Nhu quyết liệt ngăn lại. Nhị vị cùng bảo, đừng làm thế, có nhớ tới các vị thì cố gắng tu học, đừng tưởng đời người trăm năm mà chỉ là chớp mắt thôi. Không bỏ phí phút giây nào, chính là trả ơn Thầy, Tổ đó.

“Nhất tự vi sư. Bán tự vi sư”, huống chi con đã nhận được cả một trời thương yêu mà ngàn trang sách cũng không ghi xuống hết, vì chữ nghĩa, dù bao nhiêu cũng vẫn còn giới hạn. Tình thương và lòng từ bi theo tinh thần Phật dạy mới vượt mọi biên cương để dẫn dắt chúng sanh đến bờ Giác Ngộ.

(Cốc Thảnh Thơi – Tháng Ba 2008)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
29/05/2021(Xem: 21054)
Thiền sư Minh Hoằng Tử Dung, Tổ thứ 34 của Thiền Phái Lâm Tế, đến Việt Nam truyền giáo vào cuối thế kỷ 17, đệ tử nối pháp của Ngài là Thiền Sư Thiệt Diệu Liễu Quán, Sơ Tổ của Phái Lâm Tế Liễu Quán tại Việt Nam. Thời Pháp Thoại thứ 240 của TT Nguyên Tạng từ 6.45am, Thứ Bảy, 29/05/2021 (18/04/Tân Sửu) 🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️ “Vạn pháp qui nhất, nhất qui hà xứ? (Muôn pháp về một, một về chỗ nào?) “ (Câu Thoại Đầu của Thiền Sư Minh Hoằng Tử Dung trao cho đệ tử Thiệt Diệu Liễu Quán tham cứu trong 8 năm ròng rã) 💐🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌼🌺🍀💐🌼 💐🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌼🌺🍀💐🌼 Múi giờ : pháp thoại của TT Trụ Trì Thích Nguyên Tạng (trong thời gian cách ly vì đại dịch Covid-19) về chư vị Tổ Sư Ấn Độ, Trung Hoa, Việt Nam…) - 06: 45am (giờ Melbourne, Australia) - 12:45pm (giờ Cali, USA) - 03:45pm (giờ Montreal, Canada) - 09:45pm (giờ Paris, France) - 02:45am (giờ Saigon, Vietnam) 💐🌹🥀🌷🍀💐🌼🌸🏵️🌻🌼💮🍂🍁🌾🌱🌿🍃 Youtube: Tu Viện Quảng Đức (TT Thí
03/05/2021(Xem: 4509)
Sư Giác Phổ định lấy vé cho tại hạ về Huế, nhưng ông bạn “nhong nhong”, buộc phải lên Daklak đi xe với anh em, đâu được ưu tiên biệt đãi thế! 6g chiều vừa xuống sân bay, sư đã đón tại sảnh; Tịnh xá Ngọc Quang lẳng lặng trong màn đêm; đại hồng chung tiễn nhân sinh vào cõi mộng.Bận rộn bao việc để chuẩn bị mai lên đường, thế mà đích thân sư bê lên ly bột.
14/04/2021(Xem: 10636)
Đã hơn 45 năm kể từ 1975, nhắc lại chuyện vượt biên quả là xưa như trái đất, xưa quá rồi diễm, nhiều người chẳng muốn nghe, đôi khi còn trách, chuyện qua rồi hãy cho vào dĩ vãng nhắc lại làm gì cho thêm buồn, “quá khứ đã qua, tương lai chưa đến, hãy nghĩ và sống với hiện tại”. Thế nhưng đâu ai hiểu cho rằng, hiện tại của tôi bây giờ chính là phải viết bài cho ngày 30/4 để đăng báo, mà 30/4 vấn đề tuy cũ kỹ nhưng muôn thuở vẫn luôn có giá trị vì đó là lịch sử và chuyện vượt biên cũng đóng góp trong phần lịch sử đó. Luẩn quẩn là như thế. Và biết đâu, giữa khi mọi người đã quên thì tôi nhắc lại cho mọi người nhớ, và biết đâu giúp các thế hệ sinh sau đẻ muộn hiểu chút ít về lịch sử nước nhà trong giai đoạn đau thương của đất nước, thống nhất lãnh thổ nhưng không thống nhất lòng người đã để lại hận thù, chia cách không biết khi nào mới hàn gắn được và là nguyên nhân tại sao cha mẹ ông bà chúng lại lưu lạc xứ người và ra đi làm sao. Cây có cội, nước có nguồn, là con người ai cũng muốn biết c
03/02/2021(Xem: 4112)
Sinh ra tại Edinburgh (Scotland) nhưng Scott Neeson đã chuyển tới Australia định cư khi mới 5 tuổi. Ông là con trai của một lao công và một quân nhân. Năm 17 tuổi, Scott quyết định bỏ học và sống dựa vào tiền trợ cấp thất nghiệp. Nhờ chương trình hỗ trợ của chính phủ, ông được nhận vào vào một rạp chiếu phim là nhân viên kỹ thuật phòng chiếu. Câu chuyện nhẽ ra sẽ kết thúc tại đây nếu không phải Scott là người khá tham vọng và tràn đầy nhiệt huyết. Người đàn ông này kiên trì leo lên từng bậc thang trong ngành điện ảnh, từ một nhân viên phát hành phim đến nhân viên kinh doanh phim. Cuối cùng, mọi công sức của Scott cũng được đền đáp khi ông được bổ nhiệm là Giám đốc Chi nhánh Australia của hãng 20th Century Fox (nay là 20th Century Studios thuộc Disney).
30/01/2021(Xem: 6056)
Thời gian gần đây có khá nhiều nhà văn quay về với đề tài lịch sử. Sự đi sâu vào nghiên cứu cùng những trang viết ấy, họ đã tái hiện lại một triều đại, hay một giai đoạn lịch sử với góc độ, cái nhìn của riêng mình. Tuy nhiên, không phải nhà văn nào cũng thành công với đề tài này. Gần đây ta có thể thấy, Hoàng Quốc Hải với hai bộ tiểu thuyết: Tám triều nhà Lý, và Bão táp triều Trần, hay Hồ Qúy Ly của Nguyễn Xuân Khánh…Và cách nay mấy năm, nhân kỷ niệm lần thứ 40, ngày thành lập Báo Viên Giác (Đức quốc) Hòa thượng Thích Như Điển đã trình làng cuốn tiểu thuyết lịch sử: Mối Tơ Vương Của Huyền Trân Công Chúa. Thật ra, đây là cuốn (tiểu thuyết) phân tích, lời bàn về lịch sử thì chính xác hơn.
28/01/2021(Xem: 7205)
Hòa thượng họ Hồ, húy Đắc Kế, Pháp danh Nguyên Công, tự Đức Niệm, bút hiệu Thiền Đức, thuộc dòng Lâm Tế đời thứ bốn mươi bốn, sinh năm Đinh Sửu (1937) tại làng Thanh Lương, phủ Hòa Đa, tỉnh Bình Thuận, nay là xã Chí Công, huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận. Nhờ túc duyên tiền kiếp, nên mặc dù không ai khích lệ thúc đẩy, Ngài vẫn một mình cố công tìm đường hướng về với đạo lý giác ngộ. Khởi đầu, Ngài xin xuất gia với Hòa Thượng Thích Minh Đạo tại chùa Long Quang, Phan Rí năm 13 tuổi. Sau đó, trên đường tầm sư học đạo, Ngài cầu học với Hòa thượng Trí Thắng chùa Thiên Hưng và Hòa Thượng Viện chủ chùa Trùng Khánh ở Phan Rang, Hòa Thượng Thiện Hòa ở chùa Ấn Quang, Sàigòn, và Hòa Thượng Trí Thủ ở Phật Học Viện Hải Đức Nha Trang. Vào năm 1962, Ngài tốt nghiệp Cao Đẳng Phật giáo tại Phật Học Đường Nam Việt chùa Ấn Quang Sàigòn. Song song với Phật học, Ngài cũng c
27/01/2021(Xem: 14623)
Đức Đa Bảo Như Lai 🌻🌼💮🍂🍁🌾🌱🌿🍃 Thượng Tọa Thích Nguyên Tạng giảng: từ 6.45am, Thứ Sáu, 17/07/2020 (26/5/Canh Tý) Giải thích Nghi Thức Đảnh Lễ Tam Bảo do Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Trí Thủ (1909-1984) biên soạn và hành trì trong suốt cuộc đời của Ngài. 26/ ĐỨC ĐA BẢO NHƯ LAI Nhất thiết vô niết bàn Vô hữu niết bàn Phật Vô hữu Phật niết bàn Viễn ly giác sở giác Nhược hữu nhược vô hữu Thị nhị tắc câu ly. Nhất tâm đảnh lễ Quá khứ cửu viễn thành Phật Đa Bảo Như Lai. (1 lạy) Youtube: Tu Viện Quảng Đức (TT Thích Tâm Phương, TT Thích Nguyên Tạng, Melbourne, Australia)
25/01/2021(Xem: 28128)
Đức Phật Thanh Tịnh Pháp Thân Tỳ Lô Giá Na 🌼💐🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌼 Bạch Sư Phụ, hôm nay chúng con được học bài kệ thứ 23, đảnh lễ Đức Phật Thanh Tịnh Pháp Thân Tỳ Lô Giá Na, trong Nghi Thức Đảnh Lễ Tam Bả Thượng Tọa Thích Nguyên Tạng giảng: từ 6.45am, Thứ Ba, 14/07/2020 (24/5/Canh Tý) Giải thích Nghi Thức Đảnh Lễ Tam Bảo do Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Trí Thủ (1909-1984) biên soạn và hành trì trong suốt cuộc đời của Ngài. 23/ĐỨC PHẬT PHÁP THÂN TỲ LÔ GIÁ NA Chơn tánh hữu vi không Duyên sanh cố như huyễn Vô vi, vô khởi diệt Bất thật như không hoa. Nhất tâm đảnh lễ Thường tịch quang độ thanh tịnh diệu pháp thân Tỳ Lô Giá Na Phật. Nơi thể tánh chân như, Pháp hữu vi không thật, Duyên sinh, nên như huyễn; Vô vi không sinh diệt, Cũng không phải thật pháp, Như hoa đốm hư không. Một lòng kính lạy đức Phật Tì Lô Giá Na, Pháp Thân thanh tịnh nhiệm mầu, cõi Thường-tịch-quang. (1 lạy) Youtube: Tu Viện Quảng Đức (TT Thích Tâm Phương, TT Thí
20/01/2021(Xem: 7349)
Bồ Tát Hộ Minh khi ở trên cung trời Đâu Suất, đã quan sát thấy nơi dục giới cõi Ta bà, nhất là nơi Ấn Độ với rất nhiều mối Đạo, phân chia giai cấp trầm trọng, để hòng nô dịch, bóc lột và cai trị người dân, họ chạy theo Ngũ Dục (Tài, sắc, danh, ăn, ngủ) khiến con người bị thiêu đốt bởi lục dục thất tình tiêu cực của chính bản thân mình. Vì vậy, lòng bi mẫn vô lượng thúc giục Bồ Tát Hộ Minh đản sinh vào hoàng tộc Tịnh Phạn vương (trở thành Thái Tử Tất Đạt Đa). Với cung vàng điện ngọc, vợ đẹp con xinh, nhưng rồi cũng vì lòng Từ bi khi thấy, biết được “sanh. già, bệnh, chết” đang hoành hành gây khổ đau cho thế gian này, nhưng chưa ai giải cứu được, cả vua cha cũng đành bất lực. Ngài đành giả từ hoàng cung, để vào rừng sâu “tìm chân lý”. Mục đích đặc biệt là để “khai thị chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến” tức là “Mở bày cho mọi người sáng tỏ được tri kiến Phật”.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]