Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

04. Đi tìm quê hương

05/09/201103:08(Xem: 2798)
04. Đi tìm quê hương

HÀNH TRÌNH VỀ PHƯƠNG ĐÔNG
Huệ Trân 2008

Đi tìm quê hương

Có lẽ trong đời, nhiều người đã từng nói, hoặc từng nghĩ tới câu này “Đi tìm quê hương”. Ai đi tìm quê hương? Chắc hẳn phải ngầm có chủ từ Tôi, Anh, Chị, v.v…

Khi lòng ta hướng về tâm trạng đi tìm quê hương thì không phải chỉ vì ta đang xa quê hương, đang nhớ quê hương mà ngay cả khi đang sống giữa lòng quê hương lại cảm thấy ta như khách lạ! Nên đi tìm quê hương không phải chỉ là đi tìm mảnh đất quê hương mà còn là tìm về quê hương tâm linh.

Vậy, tìm quê hương là đích thực tìm gì?

Mỗi người đều có cái nhìn khác nhau. Riêng tôi, quê hương đích thực là những phút giây tôi an lạc, tôi vững chãi, tôi thảnh thơi, tôi biết yêu mình và yêu người.

Quê hương với ta phải là Một. Tìm quê hương ngoài ta sẽ chẳng thể thấy.
Tôi đã từng lạc quê hương.
Tôi đã từng lạc tôi.

Những khi ấy, tôi vô cùng hoang mang, sợ hãi vì tôi chưa biết cách tự vệ và chấp nhận sự bất xứng do lòng người thâm độc gây ra, nên nhìn cành cây cong nào cũng ngỡ là cung tên! Trong cơn hoảng hốt, tôi lại sai lầm khi cất bước chạy trốn với ý nghĩ “Tôi phải đi tìm cho ra quê hương. Where’s my true home?”

Nói như thế, giống như TÔI là sự ĐÃ tìm ra rồi, trong khi tôi đang lạc tôi, tôi không biết tôi là gì, tôi là ai, mới để cho sự tuyệt vọng, sự sợ hãi lấn áp mình như thế! Khi tôi chưa tìm ra tôi thì tôi chỉ là VỌNG. Một cái đang còn là vọng lại khởi bước đi tìm một cái khác thì làm sao thấy được! Thật đáng tội nghiệp!

Người xưa thường nói “cùng tất biến”. Không biết cái vòng tội nghiệp mà tôi phải lăn trôi đã tới cùng chưa, nhưng khi chuỗi Bồ Đề 108 hạt, lần trên tay, bỗng đứt ở hạt thứ 99, đang trên câu niệm Đức Quan Thế Âm thì tôi đã biết.

Đây chính là lời tôi phát nguyện trước Đại Tôn Tượng Quan Thế Âm trong Lễ Hội Quan Âm lần thứ sáu tại chùa Việt Nam, Houston, Texas. Tôi đến trước ngày khai mạc Lễ Hội, quỳ rất lâu trước Tôn Tượng hiển linh và xin Đức Đại Từ Đại Bi chỉ cho tôi con đường tìm về Quê Hương qua bất cứ một hình thức nào khi tôi đang niệm danh hiệu Ngài. Đó cũng là thời gian đài khí tượng địa phương chính thức thông báo sẽ có giông bão và mưa đá trút xuống thành phố. Khi tôi bước qua chiếc cầu gỗ bắc ngang hồ Hương Thủy để đến quỳ trước Tôn Tượng thì gió bốn phía đang ào ạt thổi tới, làm nghiêng ngả hàng dừa cao vút, tưởng như những đám rễ dưới lòng đất đang hoảng sợ, rên xiết trước sức mạnh hung hãn của cuồng phong! Gió bão ngoài trời và gió bão trong lòng tưởng sẽ quật ngã một sinh linh vô minh yếu đuối như tôi. Nhưng lạ thay, khi tôi phải hết sức ngửa cổ ra sau mới có thể nhìn suốt tới vầng hào quang trên đỉnh đầu Tôn Tượng, thì lòng tôi bỗng bình lặng. Tôi nhìn thấy rõ ánh mắt Mẹ Quan Âm. Đó là ánh mắt của “Từ nhãn thị chúng sanh”, mắt thương nhìn xuống chúng sanh khổ lụy.

Đại Tôn Tượng Mẹ Quán Âm hùng vĩ lắm, tưởng như chạm tới khung trời Đâu Suất. Vậy mà Mẹ đã nhìn thấy tôi, một sinh linh nhỏ bé đang quỳ dưới chân Mẹ. Quả thật, Mẹ không bỏ sót một ai thành tâm cầu khẩn Mẹ. Nếu không thế, giông bão trong lòng tôi sao bỗng nhiên êm ả khi tôi vừa chạm vào ánh mắt từ bi của Mẹ?

Rồi chẳng phải chỉ bão trong lòng lắng yên mà bão ngoài trời do những chuyên viên khí tượng đo lường và dự đoán cũng đứng ngoài hết mọi chương trình Lễ Hội, như một phép lạ mà những ai không có lòng tin sẽ chẳng thể hiểu nổi! Sự nhiệm mầu này, hàng ngàn Phật tử khắp nơi về dự Lễ Hội Quan Âm lần thứ sáu, vào ba ngày cuối tuần của cuối tháng ba năm 2007 đều đã chứng kiến!

Từ ngày cầu nguyện trước Tôn Tượng Mẹ, tôi đã tụng niệm danh xưng Mẹ bao nhiêu ngàn lần trong suốt hơn một năm qua nhưng chưa thấy một biểu hiện nào rõ nét. Tôi biết, đó là vì nghiệp mình chưa dứt. Tôi chưa trả hết nợ đời, nợ người, cho đến khi xâu chuỗi lần trên tay đứt ở hạt thứ 99, đồng thời với mũi tên tẩm thuốc cực độc do lòng ích kỷ, dối trá của nhân thế bắn ra, thì tôi biết đã đến lúc tôi được lên đường.

Ngay lập tức, tôi nhìn thấy Quê Hương mình.

Bao nhiêu khổ đau phiền não bỗng tan biến, như phẩm Gánh Nặng trong kinh Tạp Hàm, có một người thường nhẫn nhục, gánh một gánh mà đi trong khổ nhọc. Nhưng khi người ấy nhận ra, cái gánh vẫn oằn vai khiêng vác bấy lâu chỉ là gánh nặng, người ấy liền bỏ gánh xuống, rồi đứng thẳng, nhìn con đường thênh thang trước mắt và mỉm cười, tiếp tục đi.

Những bước chân sau đó là những bước chân an lạc, thảnh thơi.
Chỉ cần biết buông bỏ gánh nặng, người ấy không cần nhọc công tìm cũng đã thấy Quê Hương.

Hôm nay, tôi nhận được một lá thư, đóng dấu bưu điện từ tiểu bang xa gửi tới. Lá thư của một đạo hữu thân thương, hằng theo dõi bước chân tôi. Mở ra thì đây không thuần túy lá thư mà là một bài viết được cắt ra từ một tờ báo, kèm theo năm chữ “Thân quý tặng sư cô”. Đạo hữu này biết là bấy lâu nay tôi không đọc báo, cũng không mở những website chỉ có những thị phi làm vẩn đục thân tâm, nên đã gửi cho tôi trang báo này. Đây là bài viết của một Phật tử trong lần ghé thăm Thầy Tuệ Sỹ tại Quảng Hương Già Lam ở Quận Gò Vấp. Chỉ vừa nhìn tấm ảnh kèm theo cũng đoán được phần nào nội dung. Hình chụp Thầy ngồi trên chiếc võng, trước Thị Ngạn Am, tiếp người bạn trẻ đến thăm.

Hình ảnh Thầy và chiếc võng trên hành lang nhỏ hẹp dẫn vào Thị Ngạn Am là hình ảnh quá thân quen đối với Phật tử Việt Nam khắp năm châu, vì hình ảnh đó không hề thay đổi từ khi vị tu sỹ mang bản án tử hình, được đổi thành chung thân khổ sai, rồi quản thúc vô thời hạn tại tu viện Quảng Hương Già Lam cho đến ngày nay. Tất cả những từ ngữ “tử hình, chung thân, quản thúc …” rồi bây giờ đang là “thân cộng, phản bội, chạy theo danh lợi v.v…” đều do tâm địa và miệng lưỡi thế gian đặt cho. Còn Thầy ư? Thầy vẫn lặng thinh như vạn hữu. Vạn hữu có nói gì đâu mà vẫn đủ bốn mùa mưa nắng! Thầy có nói gì đâu mà tâm lượng Bồ Tát vẫn tỏa rộng năm châu! Chỉ có lòng người đổi thay, tự biến dạng thành những ngọn gió đen, làm ngả nghiêng hoa trái. Thầy vẫn ngồi đó, trên chiếc võng năm xưa, rồi công phu sớm tối ba thời, ngày ăn một bữa, đêm đắp một chăn đơn, chứ có lẽ Thầy cũng chưa tận dụng đủ tới ba Y một Bát!

Nhẩn nha đọc bài báo thì tôi cũng bật cười như Thầy đã cười vậy. Khi người phương xa ghé thăm, hỏi Thầy về những lời cáo buộc bên ngoài, rằng Quảng Hương Già Lam là “bản doanh của Hội Thân Hữu Già Lam, là đầu não những âm mưu lật đổ GHPGVNTN”! Kẻ phàm phu nào mà bị cáo buộc như vậy, chắc chắn sẽ có nhiều phản ứng ngoạn mục lắm. Nhưng Thầy Tuệ Sỹ chỉ mỉm cười nhẹ nhàng: “Thì quý vị đến thăm bất ngờ đó, quý vị cứ tham quan và nhìn xem có những ai và những gì nơi đây”

Thầy nói, có lẽ chỉ để đáp lòng khách, chứ nói như thế cũng như không nói! Chỉ có hương trà, hương thanh khiết từ những giò lan dọc hành lang hẹp và thanh âm thánh thót, lao xao từ những phong linh treo quanh vườn đang len nhẹ vào hồn, chuyển hóa uẩn khúc thế gian thành an lạc, mới là câu trả lời cho khách.

Tinh thần Hoa Nghiêm từng dạy một câu rất thâm sâu nhưng chỉ cần lắng tâm là có thể nắm bắt được. Đó là: “Khoảnh khắc chứa đựng thiên thu”. Mỗi phút giây là mỗi thách thức của ta qua sự hiện hữu ở cõi Ta Bà này. Ta phải nghĩ thế nào để có chánh niệm, thở thế nào để có tỉnh thức, sống thế nào để có an lạc. Bước được một bước chân vào Tịnh Độ thì cần gì trăm năm?! Khoảnh khắc đó chính là thiên thu đấy.

Vị tu sỹ ngồi đó, tâm không lay động như thiết thạch vạn cổ, nhưng nụ cười nhẹ lại là vô lượng từ ái của phút giây hiện tại.

Nên tôi nhìn Thầy, dù chỉ qua tấm ảnh, mà thấy Thầy có mặt ở cả tích-môn lẫn bản-môn.

Không thở không khí nhiễm ô thì tâm không ô nhiễm.
Không lụy nơi uế trược thì thân không vấy bẩn.

Nhìn hình ảnh Thầy, trước sau như một, xuất thế gian mà không rời thế gian pháp, tôi lại thấy cả một trời Quê Hương.

Với tôi, Thầy Tuệ Sỹ vẫn mãi mãi đồng nghĩa là Quê Hương Đích Thực.

(Cốc Thảnh Thơi, Tháng Ba, 2008)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/02/2022(Xem: 6918)
Hai năm trước, khi tin Hòa Thượng Thích Minh Tâm viên tịch lan truyền khắp năm châu, ai ai cũng ngỡ ngàng thương tiếc. Hầu như các tự viện trên thế giới đều tổ chức lễ tưởng niệm tri ân Ngài. Tu Viện Quảng Đức cũng không ngoại lệ, buổi lễ truy niệm đã được tổ chức một cách trang nghiêm, trọng thể. Sau đó TT Thích Nguyên Tạng đã lên chương trình Hành Hương Âu Châu vào cuối tháng 7 năm 2015, với mục đích chính là tham dự lễ Đại Tường Tưởng Niệm HT Thích Minh Tâm, đồng thời dự lễ Khánh thành Chùa Khánh Anh. Phật tử TVQĐ thật hoan hỷ với tin này và đã cùng nhau lập ra kế hoạch tiết kiệm để tham dự chuyến Hành Hương Âu Châu.Thời gian hai năm tưởng là lâu, nhưng thoắt một cái ngày đi đã gần kề, mọi người nô nức chuẩn bị hành trang để lên đường. Phái đoàn Hành Hương có 83 người gồm:Melbourne: 38 người; Sydney: 21 người; Perth: 9 người;Adelaide: 5 người.
07/02/2022(Xem: 17676)
Kính đa tạ Thầy đã giới thiệu 14 lời vàng của HT Thích Trí Tịnh (1916-2014 ) một Bồ Tát thị hiện đã mang kho tàng kinh các đến với Phật Tử VN trong và ngoài nước nhưng cuối cùng di chúc để lại cho đời chỉ vỏn vẹn 14 lời vàng này lại là Kim Chỉ Nam cho những ai muốn tu tập giải thoát ( LÀM LÀNH-LÁNH DỮ-THƯƠNG NGƯỜI- THƯƠNG VẬT-ĂN CHAY-NIỆM PHẬT -TỤNG KINH ) và Bộ Toàn tập Kinh Hoa Nghiêm 4 quyển cũng như Ngũ Kinh Tịnh Độ mà Ngài đã thọ trì hằng ngày từ A lại da thức khởi phát.
24/01/2022(Xem: 5199)
Tuyển tập Hành Hương Tứ Đại Danh Sơn Trung Quốc 2007 do Tu Viện Quảng Đức tổ chức
19/01/2022(Xem: 5445)
Dân tộc Việt Nam học và hành theo giáo lý Phật thuyết trên dưới hai nghìn năm trước khi Pháp sư Huyền Trang quy Phật cũng trên sáu thế kỷ, tuy vậy cho đến nay chúng đệ tử Phật, xuất gia cũng như tại gia, biết đến công hạnh của Ngài rất ít, và cũng biết rất ít di sản Kinh Luận của Ngài cho Phật tử Việt nam học và hiểu giáo pháp của Đức Thế Tôn một cách chân chính để hành trì chân chính. Bản dịch Đại Đường Tây vực ký của Hòa Thượng Như Điển với sự đóng góp của Cư sĩ Nguyễn Minh Tiến bổ túc cho sự thiếu sót này. Từ những hiểu biết để thán phục, kính ngưỡng một Con Người vĩ đại, hãn hữu, trong lịch sử văn minh tiến bộ của nhân loại, một vị Cao Tăng thạc đức, với nghị lực phi thường, tín tâm bất hoại nơi giáo lý giải thoát, một thân đơn độc quyết vượt qua sa mạc nóng cháy mênh mông để tìm đến tận nguồn suối Thánh ngôn rồi thỉnh về cho dân tộc mình cùng thừa hưởng nguồn pháp lạc. Không chỉ cho dân tộc mình mà cho tất cả những ai mong cầu giải thoát chân chính.
04/01/2022(Xem: 6156)
Không hiểu sao mỗi khi nhớ về những sự kiện của năm 1963 lòng con bổng chùng lại, bồi hồi xúc động về quá khứ những năm đen tối xảy đến gia đình con và một niềm cảm xúc khó tả dâng lên...nhất là với giọng đọc của Thầy khi trình bày sơ lược tiểu sử Đức Ngài HT Thích Trí Quang ( một sưu tầm tài liệu tuyệt vời của Giảng Sư dựa trên “ Trí Quang tự truyện “ đã được đọc tại chùa Pháp Bảo ngày 12/11/2019 nhân buổi lễ tưởng niệm sự ra đi của bậc đại danh tăng HT Thích Trí Quang và khi online cho đến nay đã có hơn 45000 lượt xem). Và trước khi trình pháp lại những gì đã đươc nghe và đi sâu vào chi tiết bài giới thiệu Bộ Pháp Ảnh Lục cùng lời cáo bạch của chính Đức Ngài HT Thích Trí Quang về bộ sách này, kính trich đoạn vài dòng trong tiểu sử sơ lược của HT Thích Trí Quang do Thầy soạn thảo mà con tâm đắc nhất về;
04/01/2022(Xem: 5070)
Trên đất nước ta, rừng núi nào cũng có cọp, nhưng không phải vô cớ mà đâu đâu cũng truyền tụng CỌP KHÁNH HÒA, MA BÌNH THUẬN. Tỉnh Bình Thuận có nhiều ma hay không thì không rõ, nhưng tại tỉnh Khánh Hòa, xưa kia cọp rất nhiều. Điều đó, người xưa, nay đều có ghi chép lại. Trong sách Hoàng Việt Nhất Thống Dư Địa Chí (1) của Thượng Thư Bộ Binh Lê Quang Định soạn xong vào năm 1806 và dâng lên vua Gia Long (1802-1820), tổng cộng 10 quyển chép tay, trong đó quyển II, III và IV có tên là Phần Dịch Lộ, chép phần đường trạm, đường chính từ Kinh đô Huế đến các dinh trấn, gồm cả đường bộ lẫn đường thủy. Đoạn đường ghi chép về ĐƯỜNG TRẠM DINH BÌNH HÒA (2) phải qua 11 trạm dịch với đoạn đường bộ đo được 71.506 tầm (gần 132 km)
04/01/2022(Xem: 4090)
Ngoài tên “thường gọi” là Cọp, là Hổ, tiếng Hán Việt là Dần, cọp còn có tên là Khái, là Kễnh, Ba Cụt (cọp ba chân), Ba Ngoe (cọp ba móng), Ông Chằng hay Ông Kẹ, Ông Dài, Ông Thầy (cọp thành tinh). Dựa vào tiếng gầm của cọp, cọp còn có tên gọi là Hầm, là Hùm, dựa vào sắc màu của da là Gấm, là Mun ... Ở Nam Bộ cò gọi cọp là Ông Cả, vì sợ cọp quấy phá, lập miếu thờ, tôn cọp lên hàng Hương Cả là chức cao nhất trong Ban Hội Tề của làng xã Nam Bộ thời xưa. Cọp cũng được con người gọi lệch đi là Ông Ba Mươi. Con số ba mươi này có nhiều cách giải thích: - Cọp sống trung bình trong khoảng ba mươi năm. - Cọp đi ba mươi bước là quên hết mọi thù oán. - Xưa, triều đình đặt giải, ai giết được cọp thì được thưởng ba mươi đồng, một món tiền thưởng khá lớn hồi đó. - Tuy nhiên, cũng có thời, ai bắt, giết cọp phải bị phạt ba mươi roi, vì cho rằng cọp là tướng nhà Trời, sao dám xúc phạm (?). Ngày nay, cọp là loài vật quý hiếm, có trong sách Đỏ, ai giết, bắt loài thú này không những bị phạt tiền mà còn ở
30/12/2021(Xem: 5337)
Tối ngày 11/02 âm lịch (03/03/2012), vào lúc 10 giờ tối, lúc đó tôi niệm Phật ở dưới hai cái thất mà phía trên là phòng của Sư Ông. Khi khóa lễ vừa xong, bỗng nghe (thấy) tiếng của đầu gậy dọng xuống nền phát ra từ phòng của Sư Ông. Lúc đó tôi vội vàng chạy lên, vừa thấy tôi, Ông liền bảo: “Lấy cái đồng hồ để lên đầu giường cho Sư Ông và lấy cái bảng có bài Kệ Niệm Phật xuống” (trong phòng Sư Ông có treo cái bảng bài Kệ Niệm Phật). Khi lấy xuống Sư Ông liền chỉ vào hai câu: Niệm lực được tương tục, đúng nghĩa chấp trì danh, rồi Sư Ông liền chỉ vào mình mà ra hiệu, ý Sư Ông nói đã được đến đây, sau khi ngồi hồi lâu Sư Ông lên giường nghỉ tiếp.
25/12/2021(Xem: 3878)
Cảo San đường Tuệ Nguyên Đại Tông sư (고산당 혜원대종사, 杲山堂 慧元大宗師) sinh ngày 8 tháng 12 năm 1933 tại huyện Ulju, Ulsan, một thành phố nằm ở phía đông nam Hàn Quốc, giáp với biển Nhật Bản. Ngài vốn sinh trưởng trong tộc phả danh gia vọng tộc, phụ thân Họ Ngô (해주오씨, 海州吳氏), Haeju, Bắc Triều Tiên và tộc phả của mẫu thân họ Park (밀양박씨, 密陽朴氏), Miryang, Gyeongsangnam-do, Hàn Quốc. Năm lên 7 tuổi, Ngài được sự giáo huấn của người cha kính yêu tuyệt vời, cụ đã dạy các bộ sách Luận ngữ, Mạnh Tử, Thích Độ, Đại Học, Tứ Thư và học trường tiểu học phổ thông. Vào tháng 3 năm Ất Dậu (1945), khi được 13 tuổi, Bồ đề tâm khai phát để làm tiền đề cho Bát Nhã đơm bông, Ngài đảnh lễ Đại Thiền sư Đông San Tuệ Nhật (동산혜일대선사, 東山慧日大禪師, 1890-1965) cầu xin xuất gia tu học Phật pháp. Thật là “Đàm hoa nhất hiện” khi những sợi tóc não phiền rơi rụng theo từng nhát kéo đong đưa. Tháng 3 năm 1948, Ngài được Hòa thượng Bản sư truyền thụ giới Sa di tại Tổ đình Phạm Ngư Tự (범어사, 梵魚寺), Geumjeong-gu, Busan, Hàn Qu
23/12/2021(Xem: 3005)
Chánh Điện của một ngôi Chùa tại xứ Đức, cách đây hơn 40 năm về trước; nơi có ghi hai câu đối: "Viên thành đạo nghiệp Tây Âu quốc. Giác ngộ chúng sanh đạo lý truyền", bây giờ lại được trang hoàng thật trang nghiêm và rực rỡ với các loại hoa. Đặc biệt nhất vẫn là những chậu cây Trạng Nguyên nhỏ to đủ kiểu, nổi bật nhất vẫn là những chiếc lá đỏ phía trên phủ lên những chiếc lá xanh bên dưới. Ai đã có ý tưởng mang những cây Nhất Phẩm Hồng, có nguồn gốc ở miền Nam Mexico và Trung Mỹ vào đây? Và theo phong thủy, loại cây này mang đến sự thành công, đỗ đạt và may mắn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567