Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

14. Tể Tướng Ðại Ðiển Tôn

29/08/201105:03(Xem: 3817)
14. Tể Tướng Ðại Ðiển Tôn

LƯỢC TRUYỆNTIỀN THÂN ĐỨC PHẬT
Hòathượng Thích Ðức Niệm
PhậtHọc Viện Quốc Tế, California, 1998

Tể Tướng Ðại Ðiển Tôn

Kinh Trường A-Hàm,quyển 5, có đoạn nói về tiền thân đức Phật Thích-Ca như vầy:

Lúc bấy giờ trờèại-Phạm-Vương hóa thân làm một Ðồng-tử đến nói với trời Ðao-Lợi rằng:"Các ngươi có muốn nghe chuyện kỳ đặc về Phật Thích-Ca không?"

Các Trời Ðao-Lợi đáp:"Hay thay! Chúng tôi từ lâu muốn biết điều đó".

Ðồng-tử Ðại-Phạm-Vươngnói: "Trong quá khứ có một kiếp nọ, Phật Thích-Ca trong lúc đang tu Bồ-Táthạnh, mới được sanh ra, Ngài đã thông minh diệu trí hơn người. Cha Ngài tên làÐiển-Tôn làm quan tể tướng của vua Ðịa-Chủ. Vua Ðịa-Chủ có thái tử tên là Từ-Bihay đi giao du với các vị đại thần dòng Sát-Ðế-Lợi. Bỗng nhiên tể tướngÐiển-Tôn mắc phải bệnh ngặt nghèo rồi qua đời để lại sự tiếc thương cho baongười. Nhất là nhà vua sầu khổ vì mất vị tể tướng tài ba trung hậu.

Thái tử Từ-Bi thấy vuacha buồn rầu, nên đến tâu rằng: "Tâu Phụ-vương! Xin Phụ-vương chớ nên buồnkhổ nữa mà tổn hại đến long thể. Tể tướng Ðiển-Tôn có một người con trai tên làDiệm-Mang tài ba lỗi lạc. Lúc tể tướng Ðiển-Tôn còn sanh tiền mỗi mỗi việctriều chánh thường đem bàn thảo với công tử Diệm-Mang, trước khi đem thi hành.Vì thế, chẳng những Diệm-Mang đã hiểu rõ những việc triều chánh mà còn biết dựđoán những việc tương lai. Theo thiển nghĩ của con, Phụ-hoàng nên triệuDiệm-Mang vào triều bàn luận trao cho việc quốc sự chắc thích hợp hơn cả".

Vừa nghe thái tử Từ-Bitrình tấu, vua Ðịa-Chủ như rũ sạch nỗi ưu phiền lo âu, liền triệu Diệm-Mang vàotriều, sau những ngày cùng nhau bàn luận kỹ lưỡng, nhà vua phán rằng: "Nayta phong cho ngươi vào chức vụ của cha ngươi ngày trước. Vậy từ đây ngươi hãyhết lòng tận trung với quốc với quân, cũng có nghĩa là tận hiếu với thân phụngười nữa đó". Nói rồi, nhà vua đem ấn tướng trao cho Diệm-Mang.

Từ khi Diệm-Mang nhậnlãnh ấn tướng, ngày đêm chuyên tâm lo việc triều chánh của vua trao, thành quảtỏ ra đặc biệt xuất sắc hơn ngày trước của cha. Còn nhà vua thì ở trong thâmcung lo hưởng thú vui dục lạc. Chẳng bao lâu, Diệm-Mang được tiếng khen đồn xa.Từ vua cho đến quốc dân, ai nấy thảy đều quý mến tôn xưng là Ðại-Ðiển-Tôn.

Chẳng bao lâu sau đó,vua Ðịa-Chủ băng hà, triều thần suy tôn thái tử Từ-Bi lên ngôi thay thế cho vuacha. Thái tử Từ-Bi sau khi lên ngôi liền nghĩ đến việc chọn người vào chức tểtướng để giúp nhà vua trị nước an dân. Ðã hơn ba tháng trời nhà vua suy nghĩtìm người hiền tài. Nhưng suy đi nghĩ lại không ai tài trí đức độ hơnÐại-Ðiển-Tôn. Vua Từ-Bi khai triều nghị hội, triều thần luận bàn sôi nổi, kếtquả lễ trao ấn tín cho tể tướng Ðại-Ðiển-Tôn được tổ chức trọng thể sau đó.

Với đức độ tài ba vàlòng trung hậu chân chánh, chẳng bao lâu tể tướng Ðại-Ðiển-Tôn dang vang khắpthiên hạ. Do đó, nên các vua của bảy nước lân bang đều triệu thỉnh ông làm cốvấn chỉ đạo việc nước cho họ. Bảy nhà đại cư sĩ cũng nhờ ông giúp ý kiến để xửlý việc nhà của họ. Bảy trăm kẻ phạm-Chí cũng nhờ Ðại-Ðiển-Tôn hướng dẫn họ đọctụng kinh điển. Họ nghĩ ông là thần minh của trời Phạm-Thiên sai xuống thếgian, nên họ hết lòng kính nể. Chẳng bao lâu sau đó, tể tướng Ðại-Ðiển-Tôn pháttâm chuyên tu suốt ba tháng hạ để thân tâm thanh tịnh, hầu mong được trờiPhạm-Thiên giáng lâm dạy đạo. Ðã ba tháng trôi qua mà không thấy trờiPhạm-Thiên đâu cả! Tể tưởng Ðại-Ðiển-Tôn quyết tâm từ bỏ tất cả chức tước triềuđình, đi ra ngoài cửa thành phía Ðông, tìm đến một gốc cây trong một túp lềutranh đem hết lòng thành chuyên tu Tứ-vô-lượng-tâm: Từ-Bi-Hỷ-Xả. Trải qua mộtthời gian tu luyện chuyên tâm thiền quán, bỗng nhiên vào một đêm nọ có ánh sángrạng ngời từ trên trời cao chiếu xuống, liền khi đó có một Ðồng-tử hiện ratrước mặt bảo rằng: "Nhà ngươi có muốn hỏi điều chi thì cứ tự nhiên".

- Ðại-Ðiển-Tôn cungkính mở lời: "Thưa Ðồng-tử, tôi muốn biết nhờ tu pháp gì mà được làmPhạm-Thiên?"

Ðồng-tử đáp: "Bỏxú uế nơi cõi lòng thì sẽ làm được Phạm-Thiên".

Ðại-Ðiển-Tôn lại hỏi:"Thế nào là xú uế nơi cõi lòng?"

Ðồng tử đáp: "Dốitrá, ngã mạn, tham lam, sân hận, si mê, ích kỷ, cố chấp, tăng thượng mạn, hậnthù, tất cả thứ đó là xú uế. Lòng còn chứa chấp những thứ xú uế đó thì khó cóthể tránh khỏi đọa vào địa-ngục, ngạ-quỉ, súc-sanh, chớ đừng nói chi làm đượcPhạm-Thiên".

Tể tướng Ðại-Ðiển-Tônnghe xong thầm nghĩ rằng: "Lòng xú uế tai hại như thế. Ngày nào còn ở tạigia thì ngày đó còn vướng bận vợ con nhà vửa, công danh, phú quý, lợi dưỡng,không có phương cách nào dứt sạch xú uế. Chi bằng ta nên xuất gia".

Nghĩ vậy rồi,Ðại-Ðiển-Tôn liền đem ý định xuất gia của mình tâu trình với vua Từ-Bi và cácvương quốc lân bang, xin trao trả chức tể tướng để rảnh tay thực hiện chínguyện xuất gia.

Sau khi nghầại-Ðiển-Tôn tâu, vua và các quốc vương nghĩ rằng: "Hạng Bà-la-môn thườngham bạc vàng, châu báu, gái đẹp. Thế thì nay ta nên mở kho châu báu, tuyển chọnthể nữ trẻ đẹp, rồi mời tể tướng Ðại-Ðiển-Tôn đến để ông ta tùy sở thích chọnlựa. Làm như vậy, chắc Ðại-Ðiển-Tôn sẽ bỏ ý định từ quan xuất gia tu học đạo.

Nhưng nào có ngờ nhữngthứ ấy không làm lay chuyển được lòng kẻ đã quyết tâm tu hành. Ðại-Ðiển-Tôn vẫnkhẩn thiết tâu rằng: "Muôn tâu Thánh-thượng! Tấm lòng của Thánh-thượng quáưu đãi như thế, hạ thần đã được ân mưa móc lắm rồi! Nhưng mong Thánh-thượng rủ lòngthương, để hạ thần được toại nguyện xuất gia tu hành. Chỉ có xuất gia là phươngcách tốt nhất để có thể trừ bỏ lòng xú uế".

Vua Từ-Bi cùng với cácvị quốc vương khuyên Ðại-Ðiển-Tôn nên đợi bảy năm nữa để các quốc vương có thờigian sắp đặt truyền ngôi cho các vương tử rồi cùng nhau đi xuất gia vớèại-Ðiển-Tôn luôn một thể. Ðại-Ðiển-Tôn thưa vua: "Thế gian vô thường,mạng người chỉ trong hơi thở, thở ra mà không hít vào thì đã qua đời khác ...Mạng người khó có thể bảo toàn được".

Các quốc vương đềukhuyên Ðại-Ðiển-Tôn rằng: "Nếu bảy năm mà khanh cho là lâu thì 6 năm, 5năm, 4 năm, có được chăng?" Nhưng tể tướng Ðại-Ðiển-Tôn lòng đã quyết, vẫnmột mực giữ ý định. Và cứ như thế các quốc vương khất hẹn thời gian giảm ngắndần cho đến khi khất hẹn chỉ còn đợi đến bảy ngày thôi, để các quốc vương thuxếp rồi cùng đi xuất gia, lúc đó Ðại-Ðiển-Tôn mới chịu đồng ý.

Ðại-Ðiển-Tôn đem việcnầy trình bày cho bảy vị đại cư sĩ và bảy trăm người Phạm-Chí biết. Các cư sĩđồng ý. Nhưng các Phạm-Chí lại khuyên Ðại-Ðiển-Tôn rằng: "Tể tướng chớ nênxuất gia. Xuất gia thì phải ở chỗ tịch mịch cô đơn vắng vẻ, đời sống thanh đạm,ăn ngủ thiếu thốn. Còn ở tại gia thì được hưởng đủ thú vui dục lạc. Chúng tôixin tể tướng nghĩ lại nên bỏ ý định xuất gia, để chúng ta cùng hưởng công danh,phú quý, dục lạc trần gian cho trọn kiếp người".

Ðại-Ðiển-Tôn nói vớicác Phạm-Chí rằng: "Nếu ta cho tại gia là vui, xuất gia là khổ, thì ta đãkhông có ý chí xuất gia rồi. Nhưng ta đã thấu rõ tại gia là khổ, cái khổ ràngbuộc tinh thần, tâm tánh không thể thanh tịnh, kéo theo đó cái khổ đọa lạc muônđời ngàn kiếp. còn xuất gia là vui, cái vui tinh thần thoải mái, tâm tư thanhtịnh, cái vui vĩnh viễn giải thoát giác ngộ tự tại. Ta đã suy nghĩ kỹ, nên mớiquyết định chọn lấy đời sống xuất gia".

Các vị Phạm-Chí ngherồi liền nói: "Nếu thế thì chúng tôi cũng xin theo tể tướng xuất gia, tônxưng tể tướng làm Ðạo-Sư của chúng tôi. Ðạo-Sư làm gì thì chúng tôi cũng làmtheo như thế".

Tin tể tướngÐại-Ðiển-Tôn xuất gia chẳng mấy chốc lan truyền khắp từ trong hoàng cung ra đếnnhân gian, khiến cho ai nấy đều cảm động. Các hoàng hậu cung phi và các phunhân của các đại thần đều nghĩ rằng: "Ðại-Ðiển-Tôn là bậc tể tướng tài bađức độ an bang tế thế, không những chỉ cho riêng đức vua Từ-Bi, mà còn là tểtướng của bảy quốc vương lân bang nữa. Quyền uy danh vọng, phú quý tột đỉnh hơnngười, thế mà còn từ bỏ để đi tu. Huống chi là bọn chúng ta. Nghĩ vậy rồi, họcùng nhau đến xin theo Ðại-Ðiển-Tôn để được xuất gia tu hành. Chẳng bao lâu sốngười xin xuất gia lên đến hơn tám vạn bốn ngàn người.

Kể đến đây, Phạm-ThiênÐồng-tử nói với các trời Ðao-Lợi rằng: "Các người chớ nghĩ rằng, vị đạithần tể tướng Ðại-Ðiển-Tôn Ðó chẳng phải là ai đâu khác, mà chính là tiền thâncủa đức Phật Thích-Ca. Ngài hiện đang thuyết pháp ở núi Kỳ-Xà-Quật. Nếu cácngười có nghi lời ta nói, thì xin cứ đến đó mà hỏi thì sẽ rõ. Như đức Ðiều-NgựThích-Ca có dạy điều gì, thì quý vị nên cố gắng nhớ lấy".

Lúc bấy giờ có vị nhạcthần tên là Bát-Giá-Dực của trời Ðao-Lợi, dẫn bằng hữu quyến thuộc đến trướcđức Phật quỳ thưa rằng: "Bạch đức Thế-Tôn! Do vì lời nói của vị Phạm-ThiênÐồng-tử, nên nay chúng con đến đây ra mắt xin hỏi Ngài một điều: Trong một thờiquá khứ xa xưa, có một kiếp nọ Ngài làm tể tướng tên là Ðại-Ðiển-Tôn, bạch đứcNhư-Lai có phải đúng thế không? Và vị tể tướng Ðại-Ðiển-Tôn đồng ý với vuaTừ-Bi là chỉ trong bảy ngày thì xuất gia tu hành. Rồi cùng đại chúng đi quakhắp các nước du hóa độ sanh, điều nầy có đúng không? Cúi mong đức Thế-Tôn, vìđể cho chúng trời người ba cõi có niềm tin sâu đậm vững chắc, và vì sự lợi íchchúng sanh, ngưỡng mong đức Thế-Tôn từ bi ban cho chúng con một lời xácđịnh".

Ðức Phật từ tốn đáp:"Lời thuật vừa rồi của Phạm-Thiên Ðồng-tử quả thật không hư dối. Chớ đemlòng nghi tể tướng Ðại-Ðiển-Tôn đó là ai đâu khác, mà chính là tiền thân của tađó vậy".

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/04/2013(Xem: 8727)
Ðại sư Lục tổ Huệ Năng, một nhân vật lịch sử đang đi vào huyền thoại. Sự tích của ngài, mặc dù đã được ghi chép trên giấy trắng mực đen là quyễn kinh Lục Tổ Pháp Bảo Ðàn, thế nhưng, những mẫu chuyện huyền hoặc về cuộc đời ngài, thỉnh thoảng vẫn làm mờ đi phần nào sự thực.
08/04/2013(Xem: 15335)
Nói đến luân hồi, nhiều người quan niệm đó như là chuyện xưa tích có, nhưng thật ra vô cùng mật thiết với đời sống thăng trầm của kiếp người mà chẳng mấy ai lưu tâm. Cũng như không khí hít thở hằng ngày rất thiết yếu cho đời sống, nhưng phần đông không mấy người để ý đến.
08/04/2013(Xem: 16653)
Bộ kinh Bách Dụ gồm 98 bài thí dụ của Phật nói do Ngài Pháp Sư Tăng Gia Tư Na sao lục trong kinh tạng. Hai thí dụ rốt sau: "Thuốc hay hòa trong đường phèn", "Dùng là gói thuốc A Dà Ðà" là của Pháp Sư tự soạn, để tổng dụ cho diệu lý đủ trong những thí dụ trên.
08/04/2013(Xem: 33851)
Bởi đời đức Phật Tỳ Bà Thi (Vipasyin), sau khi Phật Niết-bàn, chúng xây tháp thờ Xá-lợi, trong tháp có an trí một pho tượng Phật phết vàng. Lâu ngày pho tượng trên mặt bị lở khuyết. Khi ấy, ngài ca-diếp là thợ đúc vàng, có cô gái nhà nghèo, vì thấy mặt Phật hư khuyết, cô còn một đồng tiền vàng đem đến nhờ Ngài ca-diếp nấu ra để phết lại tượng Phật.Thấy cô phát tâm tu bổ tượng Phật, ngài rất hoan hỷ đứng ra làm chu tất việc nầy, nhơn đó, hai người cùng nguyện đời đời sẽ làm vợ chồng, mà coi như đôi tri-kỷ, chớ không vì tình dục.
08/04/2013(Xem: 12550)
Ước mong rằng người đọc cũng như người nghe truyện sẽ ghi nhớ mãi trong tâm cái nếp sống đạo đức chân chính cùng những lời khuyên dạy quý báu của vị Bồ Tát trong truyện để cùng nhau cố gắng noi theo hầu đạt được cái Chân, Thiện, Mỹ trong cuộc sống hàng ngày.
08/04/2013(Xem: 14847)
Từ ngày Ngài xuất hiện đến nay, trên hai ngàn năm trăm năm đã trôi qua bao nhiêu lớp người trồi sụp, bãi bể nương dâu đã mấy lần thay đổi: những vết tích đã xoá nhoà trong trí nhớ của người đời, những nét chữ đã lu mờ trong sách sử. Di tích của Ngài tuy được giừ gìn trong các đền chùa tháp điện, cũng không khỏi lấm màu sắc thời gian.
08/04/2013(Xem: 16202)
Tôi viết tập truyện nhỏ này với niềm say mê thích thú chưa từng có. Một mình trên căn gác, suốt ngày tâm hồn đắm vào thế giới loài vật những cọp những beo, cáo, gấu, chìa vôi, bìm bịp, chèo bẻo... tôi tưởng như chúng đang chạy nhảy và đối thoại quanh tôi. Thật là những giờ phút kỳ diệu. Viết xong từng đoan, đọc lại, cười. Như đọc văn của ai. Thích hơn khi viết về Người, bởi nghĩ rằng viết về Người đã có nhiều ngòi bút khác viết rồi. Ðằng này do mình tưởng tượng dựng ra thì hy vọng chúng mang trọn vẹn bản sắc của tâm hồn mình.
08/04/2013(Xem: 12609)
Thuyết pháp giảng kinh, viết sách giáo lý nhà Phật hoặc in kinh sách đem phát cho mọi người xem, để họ sớm giác ngộ. Ðược như thế công đức vô lượng, đó gọi là pháp thí. Nếu không đủ điều kiện làm những việc ấy, . . .
08/04/2013(Xem: 16487)
Trong thế kỷ XX, phương Tây có hai người tìm hiểu đất nước Tây Tạng rất sâu sắc, đó là bà Alexandra David Néel và ông Anagarika Govinda. Cả hai vị này đã từng sống nhiều năm tại Tây Tạng, từng tu tập thiền định và đi khắp nơi trong xứ sở huyền bí này hơn bất cứ người nước ngoài nào khác. Có thể nói họ hiểu Tây Tạng với bất tất cả những khía cạnh tâm linh, tâm lý, địa lý nhiều hơn cả phần đông người Tây Tạng.
08/04/2013(Xem: 3759)
Tháng 10 mùa thu, đề tài muôn thuở để bao văn nhân thi sĩ trên thế gian này múa bút. Kẻ tán tụng, người than van. Nhưng tựu trung không ai phủ nhận mùa thu đẹp với những chiếc lá vàng rơi phủ đầy lối đi, đường phố. Rồi thì khách bộ hành, những cặp tình nhân tay đan tay rảo bước đạp xào xạc trên lá vàng khô. Họ kéo cao cổ áo, nép vào nhau khi một làn gió nhẹ mơn man thổi đến.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]