Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

12. Nai Cứu Người

29/08/201105:03(Xem: 4117)
12. Nai Cứu Người

LƯỢC TRUYỆNTIỀN THÂN ĐỨC PHẬT
Hòathượng Thích Ðức Niệm
PhậtHọc Viện Quốc Tế, California, 1998

Nai Cứu Người

Trong thời quá khứ cócon nai chúa thân hình mang bộ lông sắc vàng óng ánh. Trên đầu mỗi sợi lông lànhững hạt ngọc kim cương lóng lánh. Nai tự biết mình có thân hình đặc biệt hơncác nai khác. Ðêm cũng như ngày từ trên thân nai phát ra ánh sáng như những vìsao trên nền trời đêm không trăng. Biết điều nầy dễ khiến cho người chú ý, dẫnđến hiểm nguy tánh mạng, nên nai chúa thường ẩn mình trong rừng sâu.

Tuy nai biết ẩn tránhnhư vậy, nhưng các thợ săn đã nhiều lần theo dõi tìm cách gài bẫy, giăng lưới,đào hầm, trét đồ ăn nơi thân cây, bỏ mồi trên cỏ để cố bắt cho được nai. Thừabiết điều bất trắc hiểm nguy đó, nai chúa đã khôn ngoan tránh né được tất cảnhững cạm bẫy. Nai chúa ở nơi nào cũng đều có một đoàn nai mạnh khỏe lanh lẹtùy tùng hầu hạ. Vì vậy mà mỗi cử chỉ động tĩnh xung quanh liền được báo tinmau lẹ để cho nai chúa kịp thời ẩn tránh.

Cuộc sống của nai chúaêm đềm phẳng lặng ngày tháng trôi qua trong khu rừng già tịch mịch, như thếtrải cũng đã bao năm. Thế rồi, bỗng một hôm trời trong gió mát, khí trời ấm ápsau những ngày mưa giông dữ dội, thì bỗng nhiên có tiếng thất thanh kêu cứu từghềnh đá thác nước ở ven rừng, làm phá tan sự yên tĩnh của sơn lâm u tịch bấy lâunay. Tiếng kêu ré đứt quãng vang dội cả một góc trời: "Xin cứu tôi với!Nước cuốn trôi tôi! Bớ người ta ơi, xin cứu tôi với ..! Tôi sắp chết đuối rồi,xin cứu dùm tôi với ..!" Tiếng thét la kêu cứu gấp rút nghe mà hãi hùngkhiến phải rùng mình!

Thoạt nghe, nai chúavảnh đứng đôi tai thì rõ biết đó là tiếng người đang chết đuối kêu la cầu cứu.Nai chúa liền hét lên một tiếng lớn rồi đâm đầu phóng nhanh về hướng có tiếngngười kêu ơi ới cứu mạng. Thấy vậy, đoàn nai hầu cận cũng co giò cong đuôiphóng theo sau. Ðến bên bờ thác, quả nhiên nhìn thấy một người đang trồi lênhụp xuống bị cuốn trôi theo dòng thác lũ bạc đầu cuồn cuộn chảy. Người nầy đãđuối sức bất lực buông tay theo dòng nước. Nai chúa nhanh như chớp, phóng mìnhra giữa dòng nước lũ, cố lấy hết sức mang gã thợ săn đã mệt lả bất tỉnh sắpchết chìm kia để lên trên lưng đưa vào bờ. Rồi nai chúa liếm mặt mũi kẻ kia chotỉnh lại.

Gã thợ săn được naichúa đưa vào bờ, sau một hồi lấy lại hơi thở bình thường, hoàn hồn tỉnh táo,nhìn thấy thân thể nai chúa đầy hạt châu báu kim cương, sắc vàng lóng lánh.Không dấu được nỗi ngạc nhiên, gã đem lòng hâm mộ, kính ngưỡng chấp hai tay báixá nai chúa lia lịa, để bầy tỏ ơn cứu sống. Gã lẩm bẩm nói: "Thưa ngài, ơncứu sống của ngài, tôi không biết lấy gì đền đáp. Tôi nguyện đời đời ghi mãinơi lòng. Sau nầy có việc chi cần đến tôi, bất cứ lúc nào, xin ngài cứ kêu lênmột tiếng là tôi sẵn sàng tuân mạng phục dịch theo ý ngài".

Nai chúa nói:"Tôi không mong trả ơn. Tôi chỉ mong ông một điều mà thôi, là đừng nói choai biết tôi đang ở khu rừng nầy. Như vậy là ông đã trả ơn tôi rồi. Chúng tôisống trong khu rừng nầy bấy lâu nay, ngày ngày thong dong hưởng thanh khí thiênnhiên, ăn lá cây hoa cỏ, uống nước suối nguồn, nghe gió reo từ đồi cây ngọnnúi, nói lời chân thật. Chúng tôi sợ loài người các ông lắm! Xin ông khi rờinơi đây làm ơn đừng nhớ đến tôi, quên khu rừng già nầy, ấy là tôi an tâm, làvạn phước lắm rồi". Nói xong, nai chúa dẫn đàn nai tùy tùng mau lẹ phóngnhanh biến dạng vào rừng sâu. Gã thợ săn kia đứng nhìn theo ngơ ngác, man máctrong lòng nỗi tiếc nuối, nai đã mất dạng sau đám cây rừng.

Gã thợ săn về nhà kểlại cho vợ con nghe tự sự đầu đuôi câu chuyện trợt chân té xuống dòng thác lũ,được nai chúa cứu sống. Nai chúa lông vàng óng ánh, thân hình đầy ngọc ngà châubáu kim cương rực rỡ v.v... Vừa kể, gã thợ săn vừa vò tay xuýt xoa khâm phụcnai quý. Vợ con gã say sưa nghe, vừa kinh hoàng, vừa ngạc nhiên, vừa mừng, vừathích thú như chuyện thần tiên.

Sau đó chẳng bao lâu,lệnh triều đình truyền rao về sự nằm mộng của hoàng hậu. Hoàng hậu của vua xứđó thường nằm chiêm bao thấy một con nai vàng mình đầy ngọc ngà chói sáng, ngồitrên tòa dùng tiếng người thuyết pháp. Ðiềm chiêm bao nầy xảy đến với bà liêntiếp suốt mấy tháng trời. Hoàng hậu thầm mơ ước được nai quý. Niềm ao ước khiếncho bà tương tư, rồi ngày biếng ăn, đêm trằn trọc chập chờn giấc ngủ. Vào mộtngày nọ, nhân khi nhà vua đến âu yếm, hoàng hậu thừa lúc vua thân thiết ântình, liền đem chuyện mình nằm mộng thuật lại cho vua nghe, và khuyên vua nên tìmcách bắt con nai nầy thả trong vườn ngự uyển, trước để làm tăng thêm giá trịbảo vật của quốc gia, sau là để cho vua và hoàng hậu ngày ngày thưởng ngoạn.

Nghe xong, nhà vuađồng ý chiều theo để đẹp lòng hoàng hậu. Ðồng thời cũng để làm tăng thêm cái giátrị đặc biệt của quốc triều. Sáng hôm sau, nhà vua truyền lệnh: "Ai bắtđược con nai chúa lông sắc vàng óng ánh, trên mình đầy châu báu đem dâng thì sẽđược trọng thưởng ngàn lượng vàng, và cắt cho một huyện để trọn quyền cai trịcùng với mười mỹ nữ trẻ đẹp làm thê thiếp hầu hạ. Hoặc ai biết chỗ nai chúa ởmà dẫn chỉ cho vua cũng được trọng thưởng bằng nhau".

Khi lệnh vua đượctruyền ra nhân gian, các chàng thanh niên, các thợ săn hăng hái thi nhau đi tìmbắt nai chúa, những mong để được trọng thưởng. Riêng gã thợ săn được nai chúacứu sống, khi nghe nhà vua treo giải thưởng đặc biệt to lớn như vậy, lòng cảmthấy xao xuyến giao động, cộng thêm bên cạnh, vợ gã cứ lân la thủ thỉ nỉ nonđêm vắn tình dài xúi dục: "Anh ơi! Ðây là dịp may ngàn năm một thuở, khôngcòn có cơ hội nào tốt hơn nữa. Giàu sang danh vọng đã kề tay mà anh không nắmlấy, cứ nhẫn tâm để cho vợ con mãi mãi sống trong cảnh nghèo nàn đến thế nầysao!? Ơn nghĩa cái giống gì? Ðồ cái loài thú vật mà cũng bận tâm ơn với nghĩa!?Ðàn ông chi mà nhu nhược ngu đần quá thế trời ơi!"

Tiếng khóc than củangười vợ trẻ mỗi lúc mỗi nỉ non thống thiết làm cho anh chàng thợ săn sốt ruộtkhó xử. Trong tâm trí của gã còn hiện rõ cử chỉ hiền từ, lời nói thành khẩnthiết tha của nai chúa: "Xin ông đừng nói cho ai biết, tôi ở chốn rừngnầy. Ông hãy quên tôi, ấy là ông trả ơn tôi rồi đó. Tôi sợ lòng dạ con ngườilắm ..."

Nhưng liền ngay đó,hình ảnh giàu sang phú quý vua ban cứ mỗi lúc lại sôi động trong trí óc của anhnhư nước sôi sùng sục, làm mờ lý trí. Lại thêm cô vợ bên cạnh cứ nỉ non thúcdục, làm cho lương tâm anh mỗi lúc một mờ dần như ngọn đèn cạn dầu trước gió,để nhường lại lòng tham tiền của giàu sang vinh hoa phú quý lấn át ngự trị.Không còn giữ được thái độ sáng suốt bình thản nữa. Một ngày nọ, anh lẹ làngtìm vào hoàng cung tâu vua.

Trước triều đình lộnglẫy uy nghiêm, vua và đình thần cân đai áo mão uy phong lẫm liệt, mà từ trướctới giờ chưa một lần nào thấy qua, khiến anh quá khiếp sợ. Ðối trước cảnh tượnguy nghiêm của triều đình, hình dáng anh càng lúng túng mất tự nhiên, áo quầnkhông tươm tất, mặt mũi thất sắc lộ vẻ sợ hãi, làm cho nhà vua đem lòng ngờvực. Sợ vua không tin, anh nói: "Muôn tâu Bệ-hạ, nếu bần dân không chỉ rađược chỗ nai chúa ở, thì xin đem cái đầu nầy ra đền tội".

Nhà vua nghe giọng nóirun run của anh quả quyết như thế, liền ra lệnh cho quân lính chuẩn bị ngựa xelên đường theo sự hướng dẫn của anh. Còn đích thân nhà vua dẫn đoàn quân đặcbiệt tiếp cận. Khi đến khu rừng già, nhà vua ra lệnh cho quân lính phân ra độingũ cẩn mật bao vây lấy cả khu rừng. Còn chính nhà vua và đoàn tùy tùng hùnghậu, đi theo sự hướng dẫn của gã thợ săn. Dọc theo dòng suối, lần sâu vào rừnggià âm u một hồi lâu, bỗng xa xa có ánh sáng lấp lánh như sao đêm, gã thợ sănra hiệu, mọi người nằm sát mặt đất im lặng rình xem động tĩnh. Nai chúa nhưlinh cảm biết có sự chẳng lành xảy đến, quát to một tiếng, các nai cận vệ cogiò tháo chạy chỉ còn lại mình nai chúa đứng yên một chỗ, hướng mắt nhìn về đámngười sát dấu thân dưới cây lá.

Gã thợ săn đưa tay chỉnai chúa, tâu nhỏ với vua rằng: "Tâu Bệ-hạ, con nai chúa mình đầy châungọc kia đó kìa! Nó đang nhìn về chúng ta đấy! Xin Bệ-hạ ra lệnh gấp kẻo nóchạy mất!"

Nhà vua lẹ như chớplấp tên dương cung bắn nai, thì liền ngay khi đó bàn tay của gã thợ săn cũngđứt rụng xuống đất máu phun lai láng.

Tên không trúng nai.Nai chúa biết mình nguy khốn đến nơi không còn cách nào trốn thoát được, liềncúi đầu quỳ mọp kêu lớn: "Muôn tâu Bệ-hạ dừng tay! Vì tôi mà Bệ-hạ phảicực nhọc long thể ngự giá đến chốn rừng sâu âm u nầy. Ðể đền tội làm phiền lòngBệ-hạ, nay tôi xin vui vẻ nạp mạng, để khỏi phiền nhọc đến long thể . Nhưngtrước khi chết, cho tôi được xin hỏi một điều là, ai chỉ cho Bệ-hạ biết tôi ởchốn nầy?"

Nhà vua chỉ tay vào gãthợ săn.

Nai chúa hướng về gãthợ săn với giọng thống thiết nói: "Ta đã sống ẩn cư nơi chốn rừng sâu anổn tự bấy lâu. Nhưng nào có ngờ đâu, vì lòng từ bi thương xót cứu mạng sống chongươi, mà ngày nay ta phải mang họa vào thân đến nông nổi nầy! Ta đã biết lòngngười phản trắc, cứu nhơn nhơn trả oán. Nên trước đây, khi đôi ta chia tay, tađã khẩn thiết van xin ngươi một điều: Ðừng cho ai biết ta ở chốn nầy. Từ lâu tasống xa cách thế nhơn, nào ngờ hôm nay vì cứu sống nhà ngươi mà ta phải nhậnlấy hậu quả bi thảm như thế nầy!"

Trước thái độ hiền hòathống trách của nai, nhà vua nghe lấy làm lạ, liền hạ cung xuống hỏi đầu đuôicâu chuyện. Nai kể hết sự tình đã xảy ra, khiến cho nhà vua và quần thần xót xacảm động. Nghe nai cúa nói xong, sắc mặt nhà vua trở nên nghiêm nghị, xoay lạihỏi gã thợ săn: "Có đúng như thế không? Ngươi phải nói thật, bằng không sẽbị mất đầu ngay bây giờ".

Gã thợ săn run sợ quỳthưa: "Muôn tâu Bệ-hạ, quả đúng như thế".

Vua vừa xấu hổ vớinai, vì nghĩ rằng loài người quá ư tệ bạc thua cả loài thú. Ðồng thời, vừa giậnghét khinh bỉ gã thợ săn kia là kẻ vong ân bội nghĩa ơn cứu sống, nên địnhdương cung bắn gã thợ săn một phát cho rồi đời. Nhưng nai chúa mau lẹ nhảy đếntrước vua lạy mọp xin tha sống cho gã.

Trước nghĩa cử nhân từquân tử của nai chúa, nhà vua vô cùng cảm phục đức tánh từ bi nhân hậu nhẫnnhục của con thú vật, nên đã ra lệnh cho quân hầu sửa soạn chiếc xe đặc biệt đểđưa nai về cung.

Trước khi lên xe vềcung, nai lại một lần nữa quỳ mọp khẩn khoản xin vua một điều, là mong nhà vualấy đức hiền hòa khoan hậu để an dân trị quốc. Nếu nhà vua hứa làm được nhưvậy, thì nai mới theo vua về triều. Bằng không, xin vua mở lượng hải hà cho naiở lại chốn rừng già để tiếp tục sống cuộc đời ẩn dật, hoặc chết ngay tại chỗcũng cam lòng. Nghe qua những lời nhân hậu phát xuất từ miệng của một con thúvật, khiến cho lòng vua và đoàn tùy tùng tướng sĩ vô cùng xúc động cảm phục,nên nhà vua đã hứa khả với nai. Lúc ấy, nai mới chịu lên xe về triều.

Về đến hoàng cung,hoàng thân quốc thích, văn võ bá quan triều thần, ai nhìn thấy hình thể của naicũng đều cảm mến ngưỡng mộ.

Riêng vua và hoàng hậutừ ngày có nai nơi vườn ngự uyển, lòng cảm thấy thoải mái hơn, đối đãi với báquan trong triều cũng như đối với hoàng thân quốc thích và dân chúng hết sức làrộng lượng cởi mở hơn trước. Ngày ngày mọi người ra nhìn nai, ai nấy cũng cảmthấy trong lòng thanh thản vui vui, tự nhiên muốn phát tâm ăn ở hiền lành, tinhtấn tu tâm dưỡng tánh.

Cũng từ ngày có naichúa trong vườn ngự uyển, cứ ba năm vào khoảng cuối xuân đầu hạ, khi hoa lá đuanhau trổ mầu, dưới đầm hoa sen chớm nở, nhà vua lệnh mở hết cửa thành để chodân chúng vào xem nai và thưởng ngoạn đền đài phong cảnh hoàng cung. Thấy vuakhông còn đóng kín hoàng thành như trước, nên dân chúng cảm thấy vua cùng vớitrăm họ dân gian gần gũi không cách biệt xa lạ nữa. Ai nấy đều khấp khởi vuimừng. Nhờ đức của vua và hoàng hậu biết tu, nhân dân cũng theo gương đó mà ăn ởhiền lành, nên cuộc sống của muôn dân trăm họ được thêm phần an cư lạc nghiệp.

Nói đến đây, đức Phậtxoay lại gọi A-Nan mà bảo rằng: "Gã thợ săn kia chính là tiền thân củỪề-Bà Ðạt-Ða. Nhà vua chính là tiền thân của A-Nan ông đấy. Còn nai chúa cóthân hình đầy châu ngọc chính là tiền thân của Như-Lai ta đây. Bởi do một kiếpxa xưa ta vụng tu mà phải sa đọa làm thân nai. Tuy bị đọa làm thân nai, nhưnglòng ta vẫn giữ mãi tu Bồ-Tát hạnh. Do nhiều kiếp tu Bồ-Tát hạnh tích lũy côngđức, mà ngày hôm nay ta đạt thành đạo quả Vô-thượng Bồ-đề.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
19/01/2022(Xem: 7648)
Dân tộc Việt Nam học và hành theo giáo lý Phật thuyết trên dưới hai nghìn năm trước khi Pháp sư Huyền Trang quy Phật cũng trên sáu thế kỷ, tuy vậy cho đến nay chúng đệ tử Phật, xuất gia cũng như tại gia, biết đến công hạnh của Ngài rất ít, và cũng biết rất ít di sản Kinh Luận của Ngài cho Phật tử Việt nam học và hiểu giáo pháp của Đức Thế Tôn một cách chân chính để hành trì chân chính. Bản dịch Đại Đường Tây vực ký của Hòa Thượng Như Điển với sự đóng góp của Cư sĩ Nguyễn Minh Tiến bổ túc cho sự thiếu sót này. Từ những hiểu biết để thán phục, kính ngưỡng một Con Người vĩ đại, hãn hữu, trong lịch sử văn minh tiến bộ của nhân loại, một vị Cao Tăng thạc đức, với nghị lực phi thường, tín tâm bất hoại nơi giáo lý giải thoát, một thân đơn độc quyết vượt qua sa mạc nóng cháy mênh mông để tìm đến tận nguồn suối Thánh ngôn rồi thỉnh về cho dân tộc mình cùng thừa hưởng nguồn pháp lạc. Không chỉ cho dân tộc mình mà cho tất cả những ai mong cầu giải thoát chân chính.
04/01/2022(Xem: 8534)
Không hiểu sao mỗi khi nhớ về những sự kiện của năm 1963 lòng con bổng chùng lại, bồi hồi xúc động về quá khứ những năm đen tối xảy đến gia đình con và một niềm cảm xúc khó tả dâng lên...nhất là với giọng đọc của Thầy khi trình bày sơ lược tiểu sử Đức Ngài HT Thích Trí Quang ( một sưu tầm tài liệu tuyệt vời của Giảng Sư dựa trên “ Trí Quang tự truyện “ đã được đọc tại chùa Pháp Bảo ngày 12/11/2019 nhân buổi lễ tưởng niệm sự ra đi của bậc đại danh tăng HT Thích Trí Quang và khi online cho đến nay đã có hơn 45000 lượt xem). Và trước khi trình pháp lại những gì đã đươc nghe và đi sâu vào chi tiết bài giới thiệu Bộ Pháp Ảnh Lục cùng lời cáo bạch của chính Đức Ngài HT Thích Trí Quang về bộ sách này, kính trich đoạn vài dòng trong tiểu sử sơ lược của HT Thích Trí Quang do Thầy soạn thảo mà con tâm đắc nhất về;
04/01/2022(Xem: 7335)
Trên đất nước ta, rừng núi nào cũng có cọp, nhưng không phải vô cớ mà đâu đâu cũng truyền tụng CỌP KHÁNH HÒA, MA BÌNH THUẬN. Tỉnh Bình Thuận có nhiều ma hay không thì không rõ, nhưng tại tỉnh Khánh Hòa, xưa kia cọp rất nhiều. Điều đó, người xưa, nay đều có ghi chép lại. Trong sách Hoàng Việt Nhất Thống Dư Địa Chí (1) của Thượng Thư Bộ Binh Lê Quang Định soạn xong vào năm 1806 và dâng lên vua Gia Long (1802-1820), tổng cộng 10 quyển chép tay, trong đó quyển II, III và IV có tên là Phần Dịch Lộ, chép phần đường trạm, đường chính từ Kinh đô Huế đến các dinh trấn, gồm cả đường bộ lẫn đường thủy. Đoạn đường ghi chép về ĐƯỜNG TRẠM DINH BÌNH HÒA (2) phải qua 11 trạm dịch với đoạn đường bộ đo được 71.506 tầm (gần 132 km)
04/01/2022(Xem: 6220)
Ngoài tên “thường gọi” là Cọp, là Hổ, tiếng Hán Việt là Dần, cọp còn có tên là Khái, là Kễnh, Ba Cụt (cọp ba chân), Ba Ngoe (cọp ba móng), Ông Chằng hay Ông Kẹ, Ông Dài, Ông Thầy (cọp thành tinh). Dựa vào tiếng gầm của cọp, cọp còn có tên gọi là Hầm, là Hùm, dựa vào sắc màu của da là Gấm, là Mun ... Ở Nam Bộ cò gọi cọp là Ông Cả, vì sợ cọp quấy phá, lập miếu thờ, tôn cọp lên hàng Hương Cả là chức cao nhất trong Ban Hội Tề của làng xã Nam Bộ thời xưa. Cọp cũng được con người gọi lệch đi là Ông Ba Mươi. Con số ba mươi này có nhiều cách giải thích: - Cọp sống trung bình trong khoảng ba mươi năm. - Cọp đi ba mươi bước là quên hết mọi thù oán. - Xưa, triều đình đặt giải, ai giết được cọp thì được thưởng ba mươi đồng, một món tiền thưởng khá lớn hồi đó. - Tuy nhiên, cũng có thời, ai bắt, giết cọp phải bị phạt ba mươi roi, vì cho rằng cọp là tướng nhà Trời, sao dám xúc phạm (?). Ngày nay, cọp là loài vật quý hiếm, có trong sách Đỏ, ai giết, bắt loài thú này không những bị phạt tiền mà còn ở
30/12/2021(Xem: 7121)
Tối ngày 11/02 âm lịch (03/03/2012), vào lúc 10 giờ tối, lúc đó tôi niệm Phật ở dưới hai cái thất mà phía trên là phòng của Sư Ông. Khi khóa lễ vừa xong, bỗng nghe (thấy) tiếng của đầu gậy dọng xuống nền phát ra từ phòng của Sư Ông. Lúc đó tôi vội vàng chạy lên, vừa thấy tôi, Ông liền bảo: “Lấy cái đồng hồ để lên đầu giường cho Sư Ông và lấy cái bảng có bài Kệ Niệm Phật xuống” (trong phòng Sư Ông có treo cái bảng bài Kệ Niệm Phật). Khi lấy xuống Sư Ông liền chỉ vào hai câu: Niệm lực được tương tục, đúng nghĩa chấp trì danh, rồi Sư Ông liền chỉ vào mình mà ra hiệu, ý Sư Ông nói đã được đến đây, sau khi ngồi hồi lâu Sư Ông lên giường nghỉ tiếp.
25/12/2021(Xem: 5353)
Cảo San đường Tuệ Nguyên Đại Tông sư (고산당 혜원대종사, 杲山堂 慧元大宗師) sinh ngày 8 tháng 12 năm 1933 tại huyện Ulju, Ulsan, một thành phố nằm ở phía đông nam Hàn Quốc, giáp với biển Nhật Bản. Ngài vốn sinh trưởng trong tộc phả danh gia vọng tộc, phụ thân Họ Ngô (해주오씨, 海州吳氏), Haeju, Bắc Triều Tiên và tộc phả của mẫu thân họ Park (밀양박씨, 密陽朴氏), Miryang, Gyeongsangnam-do, Hàn Quốc. Năm lên 7 tuổi, Ngài được sự giáo huấn của người cha kính yêu tuyệt vời, cụ đã dạy các bộ sách Luận ngữ, Mạnh Tử, Thích Độ, Đại Học, Tứ Thư và học trường tiểu học phổ thông. Vào tháng 3 năm Ất Dậu (1945), khi được 13 tuổi, Bồ đề tâm khai phát để làm tiền đề cho Bát Nhã đơm bông, Ngài đảnh lễ Đại Thiền sư Đông San Tuệ Nhật (동산혜일대선사, 東山慧日大禪師, 1890-1965) cầu xin xuất gia tu học Phật pháp. Thật là “Đàm hoa nhất hiện” khi những sợi tóc não phiền rơi rụng theo từng nhát kéo đong đưa. Tháng 3 năm 1948, Ngài được Hòa thượng Bản sư truyền thụ giới Sa di tại Tổ đình Phạm Ngư Tự (범어사, 梵魚寺), Geumjeong-gu, Busan, Hàn Qu
23/12/2021(Xem: 4031)
Chánh Điện của một ngôi Chùa tại xứ Đức, cách đây hơn 40 năm về trước; nơi có ghi hai câu đối: "Viên thành đạo nghiệp Tây Âu quốc. Giác ngộ chúng sanh đạo lý truyền", bây giờ lại được trang hoàng thật trang nghiêm và rực rỡ với các loại hoa. Đặc biệt nhất vẫn là những chậu cây Trạng Nguyên nhỏ to đủ kiểu, nổi bật nhất vẫn là những chiếc lá đỏ phía trên phủ lên những chiếc lá xanh bên dưới. Ai đã có ý tưởng mang những cây Nhất Phẩm Hồng, có nguồn gốc ở miền Nam Mexico và Trung Mỹ vào đây? Và theo phong thủy, loại cây này mang đến sự thành công, đỗ đạt và may mắn.
10/12/2021(Xem: 8754)
Bản dịch này cũng đã đăng tải trong các số báo đặc san Pháp Bảo, từ số 2, tháng 5 năm 1982 và còn tiếp tục đăng tải cho đến nay. Loạt bài đăng trong báo sẽ được chấm dứt trong vài kỳ báo nữa, vì các phần sau tuy cần thiết đối với người muốn nghiên cứu, nhưng lại trở nên khô khan với người ít quan tâm tới sử liệu Phật Giáo. Đó là lý do quý vị chỉ tìm thấy bản dịch được đầy đủ chỉ có trong sách này. Trong khi dịch tác phẩm, cũng như trong khoảng thời gian còn tòng học tại Nhật Bản, chúng tôi tự nghĩ: không hiểu sao Phật giáo đã du nhập vảo Việt Nam từ thế kỷ thứ 2, thứ 3 mà mãi cho tới nay vẫn chưa có được những cuốn sách ghi đầy đủ các chi tiết như bộ “Các tông phái Phật Giáo Nhật Bản” mà quý vị đang có trong tay. Điều mong mỏi của chúng tôi là Phật Giáo Việt Nam trong tương lai cố sao tránh bớt vấp phải những thiếu sót tư liệu như trong quá khứ dài hơn 1500 năm lịch sử truyền thừa! Để có thể thực hiện được điều này, cần đòi hỏi giới Tăng Già phải đi tiên phong trong việc trước t
09/12/2021(Xem: 23307)
Cách đây vài ngày đọc trên một tờ báo tại Sydney , khi nói về chủng thể Omicron vừa phát tán và lây lan do xuất phát từ các nước Nam Phi , tôi chợt mỉm cười khi đọc được câu này " Chúng ta đã học từ nạn đại dịch một điều rằng : Đừng nên hy vọng một điều gì , vì chắc chắn điều mình hy vọng ấy sẽ chỉ là THẤT VỌNG " If there’s one thing COVID has taught us , it is to expect nothing, except disappointment . What it comes to that COVID really delivers
08/12/2021(Xem: 4703)
Già San Đường Trí Quán Đại Tông Sư, vị đại học giả, vị Luật sư, Thiền sư nổi tiếng, vị Tổng vụ trưởng xuất sắc trong việc quản lý các vấn đề hành chính Phật giáo. Ngài được ca tụng lảu thông Tam tạng giáo điển, lý sự viên dung. Già San Đường Trí Quán Đại Tông Sư (가산당 지관대종사, 伽山堂 智冠大宗師, 1932-2012) tục danh Lý Hải Bằng (이해붕, 李海鵬), theo tộc phả tên Chung Bằng (종붕, 鍾鵬), Tổng vụ Viện trưởng Thiền phái Tào Khê đời thứ 32, Phật giáo Hàn Quốc, hiệu Già Sơn đường Trí Quán Đại tông sư (가산당지관대종사, 伽山堂智冠大宗師), sinh ngày 14/6/1932 (05/11/Nhâm Thân), nguyên quán làng Cheonghae-myeon, huyện Gyeongju, tỉnh Gyeongsangbuk-do, Đại Hàn. Phụ thân của Ngài là cụ ông Lý Khuê Bạch (이규백, 李圭白) và Hiền mẫu của Ngài là cụ bà Kim Tiên Y (김선이, 金先伊). Gia đình truyền thống Phật giáo lâu đời, kính tin Tam bảo.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]