Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

06. Chuyển Luân Thánh Vương

29/08/201105:03(Xem: 4340)
06. Chuyển Luân Thánh Vương

LƯỢC TRUYỆNTIỀN THÂN ĐỨC PHẬT
Hòathượng Thích Ðức Niệm
PhậtHọc Viện Quốc Tế, California, 1998

Chuyển Luân Thánh Vương

Một hôm tại thànhCâu-Thi-Na, trong rừng Ta-La Song-Thọ, trước những ngày đức Phật sắp nhậtNiếp-bàn, tôn giả A-Nan và đại chúng vô cùng buồn khổ, nhất là A-Nan tâm thầnhôn mê, hồn bất phụ thể, quên ăn bỏ ngủ, vì nghĩ rằng Phật sắp lìa đời, như mặttrời rơi rụng, như con mắt thế gian không còn, như con thơ mất mẹ.

Sau khi được Phật anủi khuyến hóa, A-Nan tỉnh ngộ, liền bạch Phật rằng: "Kính bạch đứcThế-Tôn! Thành Câu-Thi-Na na`y so với các thành Vương-Xá, thành Ba-La-Nại,thành Xá-Vệ, thành Tỳ-Xá-Ly, thì Câu-Thi-Na quả là nhỏ bé, kém văn hóa khôngkhác gì nơi biên địa. Ngài nhập Niết-bàn nơi đây chúng sanh không được lợi íchnhiều. Con nay trộm nghĩ, tốt hơn, đức Thế-Tôn nên rời Câu-Thi-Na nầy, để đếncác thành lớn kia nhập Niết-bàn. Nơi đó dân chúng đông đúc, trình độ văn hóacao, lòng tin nơi đạo Ngài sâu đậm. Như vậy chúng sanh sẽ được nhiều lợi lạchơn".

Nghe tôn giả A-Nantrình bày xong, đức Phật từ hòa dẫn giải: "Nầy A-Nan! Ông không nên nóinhư thế! Ông đâu có biết rằng, thuở quá khứ thành Câu-Thi-Na nầy có một vịChuyển-luân Thánh-vương tên là Ðại-Thiện-Kiến ngự trị, đem chánh pháp thốngnhiếp bốn châu thiên hạ. Lúc bấy giờ vương thành mỗi bề rộng trên mười cây số,có bảy lớp thành bao bọc chung quanh. Lớp thành thứ nhất bằng vàng. Lớp thànhthứ hai bằng bạc. Lớp thành thứ ba bằng lưu ly. Lớp thành thứ tư bằng pha lê.Lớp thành thứ năm bằng xa cừ. Lớp thành thứ sáu bằng mã não. Lớp thành thứ bảytổng hợp tất cả các thứ châu báu trên đời làm thành. Cứ mỗi lớp thành là có aonước tám công đức bao bọc.

Ðền đài lầu các baolơn đều làm toàn bằng bảy thứ bảo châu, điêu khắc chạm trổ huy hoàng trangnghiêm rực rỡ. Bốn cửa thành mỗi cửa đều có chín từng lớp chạm trổ sơn son thếpvàng ngời sáng thật là hoa lệ. Cây cối trong thành xanh tươi mát mẻ quanh năm.Có đủ thứ chim quý ngày ngày reo hót thanh thót trên cành cây, bay lượn trênmặt nước hồ. Trong vườn muôn thứ hoa thơm cỏ lạ rộn nở bốn mùa. Khắp hoàngthành, gió thoảng cành cây, các loài chim quý hòa tấu tạo thành âm thanh thiênnhạc. Nhân dân trong thành đều phú quý giàu sang, hưởng đầy đủ ngũ dục lạc nhưcõi trời Ðao-Lợi. Hai bên đường xa trong thành treo đầy ngọc minh châu sángchói không phân ngày đêm. Âm nhạc dịu dàng phát ra từ cành cây hoa lá khuyếnkhích khen ngợi mọi người trì trai giữ giới tu niệm, hòa với tiếng thuyết pháp,khiến cho người làm lành hướng thiện.

Vua Ðại-Thiện-Kiến làbậc vua hiền đức, tướng mạo đoan trang, dân chúng trong thành ai nấy đều quýmến ngưỡng mộ như bậc cha mẹ. Một hôm nhà vua muốn đi du ngoạn để xem dân tình,liền hạ lệnh cho quan chủ binh chuẩn bị tám vạn bốn ngàn xe ngựa để cho cungphi mỹ nữ và Bà-La-Môn, trưởng giả, cư sĩ đồng tham dự cuộc du ngoạn này. Riêngvua Ðại-Thiện-Kiến cưỡi trên lưng con bạch tượng đi giữa quân hầu. Dân chúngnghe vua xuất thành, đồng nhau kéo đến đứng hai bên đường hàng hàng lớp lớp đểđược nhìn dung nhan của đức vua. Khắp nơi, vua Ðại-Thiện-Kiến đều thấy cỏ câyhoa lá xanh tốt đầy đầy, dân chúng đâu đâu cũng được hưởng thái bình âu ca lạcnghiệp. Nhà vua lại còn hạ lệnh xây thêm hồ ao ở những nơi ngã tư đường, trôngcây mát hoa thơm để cho dân chúng đến tắm rửa thưởng ngoạn. Ðồng thời vuỪại-Thiện-Kiến còn sắc chỉ cho các quan địa phương nên đem của cải tiền vàngbạc trong kho ra bố thí để tùy sở thích của dân chúng lấy dùng.

Sau ngày du ngoạn trởvề hoàng cung, khoảng tuần lễ sau, những người Bà-la-môn, trưởng giả , cư sĩđem đủ loại vàng bạc của báu đến tặng cho vua. Vua Ðại-Thiện-Kiến nói: "Tađã ra lệnh khắp nơi mở cửa kho bố thí cho nhân dân. Ta đâu cần thiết bạc tiềnmà các khanh đem đến tặng ta làm gì?"

Các vị Bà-la-môn,trưởng giả đồng loạt tâu vua rằng: "Muôn tâu Thánh-thượng! Cung điện Thánh-thượngquá nhỏ. Mỗi lần hạ thần chúng tôi vào ra mắt Thánh-thượng thì không đủ chỗ đểcho thân quyến tùy tùng của chúng tôi đứng. Xin Thánh-thượng vì lợi ích muôndân mà mở mang cung điện lớn thêm".

Nghe lời tâu hữu lý,nhà vua im lặng suy nghĩ: "Họ tâu có lý lắm. Nay ta nên mở rộng trụ xứnày".

Bấy giờ trời Ðế-Thíchbiết rõ tâm niệm của vua Chuyển-luân Thánh-vương Ðại-Thiện-Kiến, liền gọi vịthiên tử tên Tỳ-Thủ Kiến-Ma là vị kiến trúc tài ba khéo léo nhất, bảo rằng:"Nay vua Chuyển-luân Thánh-vương Ðại-Thiện-Kiến ở cõi Diêm-phù-đề muốn mởmang cung điện, nhà ngươi nên xuống đó giúp đỡ để cho cung thành nhà vua ấycũng được trang nghiêm tuyệt mỹ như cung điện của ta đây vậy".

Thiên tử Tỳ-ThủKiến-Ma vâng lệnh, liền vận dụng thần thông co duỗi cánh tay trong nháy mắt đãbiến thành một trang tráng sĩ đến cõi nhân gian đứng trước nhà vuỪại-Thiện-Kiến.

Lúc đó, nhà vua trôngthấy hình dáng đặc biệt của vị tráng sĩ, biết không phải là người thường, nênhỏi rằng: "Ngài là ai, bỗng nhiên hiện trước ta đây?"

Vị thiên tử đáp:"Tôi tên là Tỳ-Thủ Kiến-Ma vâng lệnh trời Ðế-Thích đến đây giúp Ðại-vươngmở mang cung điện". Vua Ðại-Thiện-Kiến nghe xong rất đỗi vui mừng ưngthuận ngay.

Nhờ sự giúp đỡ thầndiệu của Tỳ-Thủ Kiến-Ma, chẳng bao lâu đền đài cung điện vua Chuyển-luânThánh-vương Ðại-Thiện-Kiến được xây xong bằng thất bảo, cực kỳ lộng lẫy rộnglớn trang nghiêm, nguy nga tráng lệ. Ðặc biệt trong cung điện mới này có điệnthuyết pháp, giữa điện thuyết pháp có tòa sư tử làm bằng bảy thứ châu báu vàchung quanh tòa có tám vạn bốn ngàn chỗ ngồi nghe pháp.

Sau khi cung điện hoànthành xong, thì cũng không còn thấy bóng hình của người tráng sĩ tài ba kia đâunữa. Nhà vua truyền lệnh đánh trống thổi kèn rao khắp nhân gian rằng: "Tạithành nội, Ðại-vương sẽ mở hội thuyết pháp bảy ngày đêm để khánh thành cungđiện mới, đồng thời bố thí vàng bạc cơm áo, dân chúng ai thích đến nghe PhậtPháp thì sẽ được tùy ý nhận lấy của báu về dùng".

Khi các hàngBà-la-môn, trưởng giả, cư sĩ và bá quan, vạn dân thi đua nhau vào chỗ ngồixong, vua Chuyển-luân Thánh-vương Ðại-Thiện-Kiến uy nghi bước lên ngồi tòa sưtử thuyết pháp về Thập Thiện, rồi tiếp đó thuyết về những thiện pháp khác,khiến cho mọi người đều được lợi lạc hưởng sự vui thú của cõi trời. VuỪại-Thiện-Kiến tiếp tục làm việc lợi ích như thế suốt hơn một vạn hai nghìnnăm.

Nầy A-Nan! Nhà vua ấylại vào tịnh thất quán tưởng biết được thời quá khứ của mình nhờ tu hạnhbố-thí, nhẫn-nhục, từ bi mà nay được phước báu làm Chuyển-luân Thánh-vương tônquý nhất trên đời không ai sánh bằng. Nhà vua ấy lại phát nguyện triệt để tinhtấn tu Tứ-vô-lượng-tâm, cung phi mỹ nữ hoàng thân quốc thích cùng cố gắng tutập.

Lúc bấy giờ công chúaThiện-Hiền cùng hoàng hậu và cung phi mỹ nữ ngồi thiền chánh niệm trong tịnhthất đã hơn bốn vạn năm cũng khởi niệm rằng: "Chúng ta ngồi thiền Chánhniệm nơi đây đã lâu lắm rồi, nay chúng ta nên đến ra mắt thăm Ðại-vương".

Trong giây lát nhữngngười nầy hiện trước vua tâu rằng: "Muôn tâu Thánh-thượng! Nay Thiện-Hiềncùng tám vạn bốn ngàn thể nữ đến ra mắt vấn an Ðại-vương".

Vua Ðại-Thiện-Kiếnnghe xong, liền lên pháp tòa sư tử. Các thể nữ kia cũng liền kéo đến trước pháptòa đồng cung kính chấp tay quỳ thưa: "Chị em chúng con trong tịnh thấtchánh tâm thiền quán đã hơn bốn vạn năm, nay đến đây yết kiến vấn an Ðại-vương,và có điều muốn thưa thỉnh, kính xin Ðại-vương thương xót thuận cho".

Vua Ðại-Thiện-Kiếnđáp: "Quý hóa thay, các ngươi cứ tùy ý nói".

Công chúa Thiện-Hiềntâu vua rằng: "Thiện hạ trong bốn phương: Nam Diêm-phù-đề, Tây Cồ-da-ni,Bắc Uất-đan-việt, Ðông Phất-bà-đề đều giàu sang, vui vẻ, yên ổn biết tu hànhthập thiện, tất cả đều nhờ đức giáo hóa của Ðại-vương. Riêng thành Câu-Thi-Natrong cõi Diêm-phù-đề này còn có đến tám vạn bốn nghìn thành. Quốc-vương,Ðại-thần, Bà-la-môn, Trưởng giả đều muốn yết kiến Ðại-vương, ước mong để nhờ ơnmưa móc pháp nhũ. Nhưng Ðại-vương thiền định trải qua nhiều năm, nên mọi ngườikhông có dịp triều kiến chiêm ngưỡng dung nhan, lòng họ khát vọng muốn đượcthấy tôn nhan Ðại-vương như con hiếu lâu năm muốn được thấy cha hiền. Vả lạibốn phương thiên hạ cần sự vỗ về dìu dắt của Ðại-vương. Lại nữa, voi ngựa xư cộđều có sẵn, Ðại-vương nên khéo dùng thời nghi để đi du ngoạn quan sát dân tìnhsinh hoạt. Vả lại ngày trước Ðại-vương thường thuyết khuyến hóa muôn dân tuThập thiện, nhưng thời gian gần đây Ngài lại chuyên tâm thiền định bỏ mất việclợi ích này. Bọn nữ nhân chúng con không làm lợi ích nhân quần, nên chuyên tâmthiền quán. Còn Ðại-vương là bậc ân đức của muôn dân, đâu phải vì mải mê tịnhtâm thiền định mà ở lâu mãi trong thiền thất được, bỏ mất điều lợi ích của muôndân.

Vua Ðại-Thiện-Kiếnnghe xong, ôn tồn đáp: "Những lời khuyên vừa rồi của các khanh thật khôngđúng ý ta. Các con nên biết rằng, tất cả hình tướng đều là vô thường, ân ái hộihọp rồi phải biệt ly, bốn phương thiên hạ đông đảo hưng thịnh rồi cũng suy tàn.Xưa kia ta đã từng làm đứa trẻ thơ bốn vạn tám ngàn năm; làm vua bốn vạn támngàn năm, nhờ liên tục gắng tu, sau rốt, ta làm Chuyển-luân Thánh-vương đến támvạn bốn ngàn năm, trị vì bốn phương thiên hạ, cung điện dẫy đầy bảy báu, muôndân ấm no, hạnh phúc, thuyết pháp tám vạn bốn ngàn năm. Từ đấy đến nay trải quanăm mươi tám vạn bốn ngàn năm. Tuy mạng sống lâu dài, nhưng cuối cùng rồi cũnghết. Thành Câu-Thi-Na này trước đây cũng hưng thạnh to lớn, lại còn có đến támvạn bốn ngàn thành lớn khác tùy thuộc, cực thịnh vô cùng, rồi cũng suy tàn tiêutan với thời gian. Tất cả sự đời có hợp rồi phải tan, có thịnh rồi phải suy,còn rồi phải mất. Biết rõ điều đó, ta đã lo chuyên cần tịnh tâm tu mà được phầntối thắng. Ta cần phải trồng nhiều thiện căn hơn nữa". Chẳng bao lâu, vuaChuyển-luân Ðại-Thiện-Kiến ấy mạng chung, sanh lên cõi trời Phạm-Thiên.

A-Nan! Vua Chuyển-luânThánh-vương Ðại-Thiện-Kiến kia trị vì bốn châu thiên hạ, nhưng nhà vua cũng chỉở một thành Câu-Thi-Na cõi Diêm-phù-đề; voi ngựa mỗi thứ có đến hơn tám vạn bốnngàn con, nhưng nhà vua cũng chỉ cưỡi có một con. Tuy có tám vạn bốn ngàn xelàm bằng thất bảo sẵn sàng cung ứng, nhưng nhà vua cũng chỉ ngồi một chiếc. Tuycó tám vạn bốn ngàn phu nhân, nhưng nhà vua chỉ yêu quý có một người. Tuy cóhơn tám vạn bốn ngàn lâu đài cung điện làm bằng châu báu, mà thật sự nhà vuacũng chỉ ở một cung điện. Thế mà nhà vua phải bận tâm lo khắp bốn châu thiênhạ, buộc lòng vào chuyện chúng sanh, luống mệt tinh thần, mà chính bản thânkhông được mấy chân lợi ích.

Ðức Phật lại bảo tiếpA-Nan rằng: "Vua Chuyển-luân Ðại-Thiện-Kiến tôn quý kia không phải làngười nào khác lạ mà chính là tiền thân của ta. Thành Câu-Thi-Na huy hoàng rựcrỡ rộng lớn ngày xưa, chính là thành Câu-Thi-Na nhỏ hẹp ngày nay. Sự việc nhưthế, sao ông có thể nói thành Câu-Thi-Na nầy là chỗ biên địa được ư?"

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
19/01/2022(Xem: 7633)
Dân tộc Việt Nam học và hành theo giáo lý Phật thuyết trên dưới hai nghìn năm trước khi Pháp sư Huyền Trang quy Phật cũng trên sáu thế kỷ, tuy vậy cho đến nay chúng đệ tử Phật, xuất gia cũng như tại gia, biết đến công hạnh của Ngài rất ít, và cũng biết rất ít di sản Kinh Luận của Ngài cho Phật tử Việt nam học và hiểu giáo pháp của Đức Thế Tôn một cách chân chính để hành trì chân chính. Bản dịch Đại Đường Tây vực ký của Hòa Thượng Như Điển với sự đóng góp của Cư sĩ Nguyễn Minh Tiến bổ túc cho sự thiếu sót này. Từ những hiểu biết để thán phục, kính ngưỡng một Con Người vĩ đại, hãn hữu, trong lịch sử văn minh tiến bộ của nhân loại, một vị Cao Tăng thạc đức, với nghị lực phi thường, tín tâm bất hoại nơi giáo lý giải thoát, một thân đơn độc quyết vượt qua sa mạc nóng cháy mênh mông để tìm đến tận nguồn suối Thánh ngôn rồi thỉnh về cho dân tộc mình cùng thừa hưởng nguồn pháp lạc. Không chỉ cho dân tộc mình mà cho tất cả những ai mong cầu giải thoát chân chính.
04/01/2022(Xem: 8517)
Không hiểu sao mỗi khi nhớ về những sự kiện của năm 1963 lòng con bổng chùng lại, bồi hồi xúc động về quá khứ những năm đen tối xảy đến gia đình con và một niềm cảm xúc khó tả dâng lên...nhất là với giọng đọc của Thầy khi trình bày sơ lược tiểu sử Đức Ngài HT Thích Trí Quang ( một sưu tầm tài liệu tuyệt vời của Giảng Sư dựa trên “ Trí Quang tự truyện “ đã được đọc tại chùa Pháp Bảo ngày 12/11/2019 nhân buổi lễ tưởng niệm sự ra đi của bậc đại danh tăng HT Thích Trí Quang và khi online cho đến nay đã có hơn 45000 lượt xem). Và trước khi trình pháp lại những gì đã đươc nghe và đi sâu vào chi tiết bài giới thiệu Bộ Pháp Ảnh Lục cùng lời cáo bạch của chính Đức Ngài HT Thích Trí Quang về bộ sách này, kính trich đoạn vài dòng trong tiểu sử sơ lược của HT Thích Trí Quang do Thầy soạn thảo mà con tâm đắc nhất về;
04/01/2022(Xem: 7313)
Trên đất nước ta, rừng núi nào cũng có cọp, nhưng không phải vô cớ mà đâu đâu cũng truyền tụng CỌP KHÁNH HÒA, MA BÌNH THUẬN. Tỉnh Bình Thuận có nhiều ma hay không thì không rõ, nhưng tại tỉnh Khánh Hòa, xưa kia cọp rất nhiều. Điều đó, người xưa, nay đều có ghi chép lại. Trong sách Hoàng Việt Nhất Thống Dư Địa Chí (1) của Thượng Thư Bộ Binh Lê Quang Định soạn xong vào năm 1806 và dâng lên vua Gia Long (1802-1820), tổng cộng 10 quyển chép tay, trong đó quyển II, III và IV có tên là Phần Dịch Lộ, chép phần đường trạm, đường chính từ Kinh đô Huế đến các dinh trấn, gồm cả đường bộ lẫn đường thủy. Đoạn đường ghi chép về ĐƯỜNG TRẠM DINH BÌNH HÒA (2) phải qua 11 trạm dịch với đoạn đường bộ đo được 71.506 tầm (gần 132 km)
04/01/2022(Xem: 6211)
Ngoài tên “thường gọi” là Cọp, là Hổ, tiếng Hán Việt là Dần, cọp còn có tên là Khái, là Kễnh, Ba Cụt (cọp ba chân), Ba Ngoe (cọp ba móng), Ông Chằng hay Ông Kẹ, Ông Dài, Ông Thầy (cọp thành tinh). Dựa vào tiếng gầm của cọp, cọp còn có tên gọi là Hầm, là Hùm, dựa vào sắc màu của da là Gấm, là Mun ... Ở Nam Bộ cò gọi cọp là Ông Cả, vì sợ cọp quấy phá, lập miếu thờ, tôn cọp lên hàng Hương Cả là chức cao nhất trong Ban Hội Tề của làng xã Nam Bộ thời xưa. Cọp cũng được con người gọi lệch đi là Ông Ba Mươi. Con số ba mươi này có nhiều cách giải thích: - Cọp sống trung bình trong khoảng ba mươi năm. - Cọp đi ba mươi bước là quên hết mọi thù oán. - Xưa, triều đình đặt giải, ai giết được cọp thì được thưởng ba mươi đồng, một món tiền thưởng khá lớn hồi đó. - Tuy nhiên, cũng có thời, ai bắt, giết cọp phải bị phạt ba mươi roi, vì cho rằng cọp là tướng nhà Trời, sao dám xúc phạm (?). Ngày nay, cọp là loài vật quý hiếm, có trong sách Đỏ, ai giết, bắt loài thú này không những bị phạt tiền mà còn ở
30/12/2021(Xem: 7103)
Tối ngày 11/02 âm lịch (03/03/2012), vào lúc 10 giờ tối, lúc đó tôi niệm Phật ở dưới hai cái thất mà phía trên là phòng của Sư Ông. Khi khóa lễ vừa xong, bỗng nghe (thấy) tiếng của đầu gậy dọng xuống nền phát ra từ phòng của Sư Ông. Lúc đó tôi vội vàng chạy lên, vừa thấy tôi, Ông liền bảo: “Lấy cái đồng hồ để lên đầu giường cho Sư Ông và lấy cái bảng có bài Kệ Niệm Phật xuống” (trong phòng Sư Ông có treo cái bảng bài Kệ Niệm Phật). Khi lấy xuống Sư Ông liền chỉ vào hai câu: Niệm lực được tương tục, đúng nghĩa chấp trì danh, rồi Sư Ông liền chỉ vào mình mà ra hiệu, ý Sư Ông nói đã được đến đây, sau khi ngồi hồi lâu Sư Ông lên giường nghỉ tiếp.
25/12/2021(Xem: 5343)
Cảo San đường Tuệ Nguyên Đại Tông sư (고산당 혜원대종사, 杲山堂 慧元大宗師) sinh ngày 8 tháng 12 năm 1933 tại huyện Ulju, Ulsan, một thành phố nằm ở phía đông nam Hàn Quốc, giáp với biển Nhật Bản. Ngài vốn sinh trưởng trong tộc phả danh gia vọng tộc, phụ thân Họ Ngô (해주오씨, 海州吳氏), Haeju, Bắc Triều Tiên và tộc phả của mẫu thân họ Park (밀양박씨, 密陽朴氏), Miryang, Gyeongsangnam-do, Hàn Quốc. Năm lên 7 tuổi, Ngài được sự giáo huấn của người cha kính yêu tuyệt vời, cụ đã dạy các bộ sách Luận ngữ, Mạnh Tử, Thích Độ, Đại Học, Tứ Thư và học trường tiểu học phổ thông. Vào tháng 3 năm Ất Dậu (1945), khi được 13 tuổi, Bồ đề tâm khai phát để làm tiền đề cho Bát Nhã đơm bông, Ngài đảnh lễ Đại Thiền sư Đông San Tuệ Nhật (동산혜일대선사, 東山慧日大禪師, 1890-1965) cầu xin xuất gia tu học Phật pháp. Thật là “Đàm hoa nhất hiện” khi những sợi tóc não phiền rơi rụng theo từng nhát kéo đong đưa. Tháng 3 năm 1948, Ngài được Hòa thượng Bản sư truyền thụ giới Sa di tại Tổ đình Phạm Ngư Tự (범어사, 梵魚寺), Geumjeong-gu, Busan, Hàn Qu
23/12/2021(Xem: 4028)
Chánh Điện của một ngôi Chùa tại xứ Đức, cách đây hơn 40 năm về trước; nơi có ghi hai câu đối: "Viên thành đạo nghiệp Tây Âu quốc. Giác ngộ chúng sanh đạo lý truyền", bây giờ lại được trang hoàng thật trang nghiêm và rực rỡ với các loại hoa. Đặc biệt nhất vẫn là những chậu cây Trạng Nguyên nhỏ to đủ kiểu, nổi bật nhất vẫn là những chiếc lá đỏ phía trên phủ lên những chiếc lá xanh bên dưới. Ai đã có ý tưởng mang những cây Nhất Phẩm Hồng, có nguồn gốc ở miền Nam Mexico và Trung Mỹ vào đây? Và theo phong thủy, loại cây này mang đến sự thành công, đỗ đạt và may mắn.
10/12/2021(Xem: 8725)
Bản dịch này cũng đã đăng tải trong các số báo đặc san Pháp Bảo, từ số 2, tháng 5 năm 1982 và còn tiếp tục đăng tải cho đến nay. Loạt bài đăng trong báo sẽ được chấm dứt trong vài kỳ báo nữa, vì các phần sau tuy cần thiết đối với người muốn nghiên cứu, nhưng lại trở nên khô khan với người ít quan tâm tới sử liệu Phật Giáo. Đó là lý do quý vị chỉ tìm thấy bản dịch được đầy đủ chỉ có trong sách này. Trong khi dịch tác phẩm, cũng như trong khoảng thời gian còn tòng học tại Nhật Bản, chúng tôi tự nghĩ: không hiểu sao Phật giáo đã du nhập vảo Việt Nam từ thế kỷ thứ 2, thứ 3 mà mãi cho tới nay vẫn chưa có được những cuốn sách ghi đầy đủ các chi tiết như bộ “Các tông phái Phật Giáo Nhật Bản” mà quý vị đang có trong tay. Điều mong mỏi của chúng tôi là Phật Giáo Việt Nam trong tương lai cố sao tránh bớt vấp phải những thiếu sót tư liệu như trong quá khứ dài hơn 1500 năm lịch sử truyền thừa! Để có thể thực hiện được điều này, cần đòi hỏi giới Tăng Già phải đi tiên phong trong việc trước t
09/12/2021(Xem: 23252)
Cách đây vài ngày đọc trên một tờ báo tại Sydney , khi nói về chủng thể Omicron vừa phát tán và lây lan do xuất phát từ các nước Nam Phi , tôi chợt mỉm cười khi đọc được câu này " Chúng ta đã học từ nạn đại dịch một điều rằng : Đừng nên hy vọng một điều gì , vì chắc chắn điều mình hy vọng ấy sẽ chỉ là THẤT VỌNG " If there’s one thing COVID has taught us , it is to expect nothing, except disappointment . What it comes to that COVID really delivers
08/12/2021(Xem: 4690)
Già San Đường Trí Quán Đại Tông Sư, vị đại học giả, vị Luật sư, Thiền sư nổi tiếng, vị Tổng vụ trưởng xuất sắc trong việc quản lý các vấn đề hành chính Phật giáo. Ngài được ca tụng lảu thông Tam tạng giáo điển, lý sự viên dung. Già San Đường Trí Quán Đại Tông Sư (가산당 지관대종사, 伽山堂 智冠大宗師, 1932-2012) tục danh Lý Hải Bằng (이해붕, 李海鵬), theo tộc phả tên Chung Bằng (종붕, 鍾鵬), Tổng vụ Viện trưởng Thiền phái Tào Khê đời thứ 32, Phật giáo Hàn Quốc, hiệu Già Sơn đường Trí Quán Đại tông sư (가산당지관대종사, 伽山堂智冠大宗師), sinh ngày 14/6/1932 (05/11/Nhâm Thân), nguyên quán làng Cheonghae-myeon, huyện Gyeongju, tỉnh Gyeongsangbuk-do, Đại Hàn. Phụ thân của Ngài là cụ ông Lý Khuê Bạch (이규백, 李圭白) và Hiền mẫu của Ngài là cụ bà Kim Tiên Y (김선이, 金先伊). Gia đình truyền thống Phật giáo lâu đời, kính tin Tam bảo.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]