Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

08. Vì Hiếu Quên Thù

29/08/201105:03(Xem: 3046)
08. Vì Hiếu Quên Thù

LƯỢC TRUYỆNTIỀN THÂN ĐỨC PHẬT
Hòathượng Thích Ðức Niệm
PhậtHọc Viện Quốc Tế, California, 1998

Vì Hiếu Quên Thù

Một hôm trên pháp tòađang thuyết giảng về lý Nhân Quả, khi đề cập đến kiếp quá khứ, đức Phật nói vớiđại chúng rằng: Thuở đời quá khứ vô lượng kiếp có một nhà vua rất mực nhân từ,lấy điều nhân nghĩa hiền đức trị dân, nhờ vậy mà khắp nơi thanh bình lạcnghiệp, dân chúng trong nước mến phục đức vua, nên thường gọi vua làHiền-Vương. Lúc bấy giờ có vua nước lân bang vô cùng tham lam độc ác, bóc lộtdân lành, hành hạ trăm họ, tóm thâu của quý trong thiên hạ dồn vào kho tàng nhàvua. Vì vậy, đâu đâu trong nước của nhà vua ác độc kia cũng nghe thấy tiếng tathán oán hận. Nhân dân gọi vua đó là Ác-Vương.

Vua lân bang tham ácthấy nước của vị vua Hiền-Ðức ngày một thanh bình giàu mạnh, dân chúng sốnghạnh phúc ấm no, mới nghĩ bụng rằng, từ lâu nghe nói vị vua Hiền-Ðức nầy chưatừng sát sanh giết hại mạng sống của ai. Nếu nay ta đem quân đánh chiếm thìchắc dễ dàng chiến thắng. Nghĩ như vậy rồi, Ác-Vương liền hội họp triều thần,trình bày kế hoạch xuất quân tấn công nước của vua Hiền-Ðức. Quần thần văn võbá quan của Ác-Vương đều tán đồng ca tụng Ác-Vương là bậc vua anh hùng tài trí,dũng lược có tài cái thế an bang.

Nghe quân của Ác-Vươngtấn công xâm lăng nước mình, vua Hiền-Ðức còn đang suy nghĩ tấn thối lưỡng nan,thì các đại thần tướng sĩ hợp nhau lại tâu vua rằng: "Tâu Bệ-hạ! Xin bệ hạlập tức ra lệnh xuất binh dẹp trừ quân giặc xâm lăng. Hiện nay trong triềukhông thiếu gì mưu sĩ tướng tài quân giỏi. Xin Bệ-hạ phải nghĩ đến sự an nguycủa quốc gia xã tắc và sự sanh tồn của muôn dân mà lập tức hạ chiếu chỉ cấp tốcxuất quân để diệt trừ giặc".

Vua Hiền-Ðức nghĩrằng: "Nếu ta xuất quân thắng địch, thì sẽ gây ra quân ta và quân giặccảnh đầu rơi máu đổ, tạo điều đau khổ cho vợ con họ biết chừng nào. Còn nếu takhông xuất quân, thì dân tình sẽ tắm máu đào trong cảnh binh đao khói lửa, gâynên tang tóc khóc than ngút ngàn, bởi quân giặc hoành hành. Cho dù thắng haybại cũng chỉ vì ngôi vị đế vương của ta. Ta không thể nào nhẫn tâm làm việc nhưthế nầy".

Biết được ý nghĩ củavua Hiền-Ðức, nên đã bao lần quần thần hội họp triều kiến khẩn thiết lạy xinnhà vua hãy cấp tốc ra lệnh xuất quân phản công để diệt trừ quân giặc xâm lăng.Nhưng nhà vua vẫn thái độ trầm buồn yên lặng. Quần thần tướng sĩ đều cho nhưvậy là điều sỉ nhục quốc thể, khinh thường quốc dân, nên họ tự động cùng nhauđồng tâm quyết chí tự điều khiển binh mã ra trận chống giặc. Riêng vua Hiền-Ðứcbàn cùng thái tử rằng: "Ta không thể chứng kiến cảnh xương rơi máu đổ, chỉvì ngôi vị của cha con ta. Vậy cha con ta nên rời khỏi hoàng thành nầy. Mặc chokẻ giặc muốn chiếm nước chiếm ngôi, miễn bá tánh trăm họ tránh khỏi chết chóckhổ sở là cha an lòng rồi!"

Thế rồi, vua Hiền-Ðứcvà thái tử cùng nhau lén ra khỏi hoàng thành, lẩn tránh lên núi cao rừng thẳmẩn cư. Vài hôm sau quân giặc tấn công chiếm thành, tiến thẳng vào cung điện nhàvua lục soát, nhưng không thấy vua Hiền-Ðức đâu cả. Quân giặc cả giận truyềnlệnh: "Ai tìm bắt được hoặc chỉ chỗ ẩn cư của vua Hiền-Ðức thì sẽ đượctrọng thưởng trăm ngàn lượng vàng và chức quan lớn". Lệnh nầy chẳng baolâu truyền khắp cả nước.

Sau khi rời khỏi hoàngcung đi ẩn vào chốn thâm sơn cùng cốc, vua Hiền-Ðức ngày đêm tĩnh tọa suy tư sựđời: "Thế gian vô thường mộng huyễn, phú quý danh vọng phù du, quốc giahưng vong an nguy trong tấc bóng, mạng sống trong hơi thở. Chúng sanh vì sắctình danh vọng lợi lộc quyền uy, mà đời đời phải trôi lăn lặn hụp trong biểnkhổ luân hồi". Tư duy việc đời, rồi nghĩ đến thân phận bọt bèo, nên nhàvua suốt ngày sống trong chánh niệm thiền quán. Còn thái tử thì ngày ngày vàorừng tìm hoa trái để dâng cho vua cha độ nhựt. Vua và thái tử đã bắt đầu quenvới cuộc sống thanh đạm êm đềm, vui với cảnh thiên nhiên "cái thân ngoạivật là tiên trong đời".

Cuộc sống thanh tịnhbình thản trong chốn rừng già tịch mịch đã làm cho hai tâm hồn vua và thái tửan vui với những ngày chim kêu vượn hú, cây cỏ núi rừng, non nước trời mây; đêmđêm thả hồn với trăng sao, cõi lòng hòa cùng với bao la vũ trụ, quên hết chuyệnđời.

Cuộc sống ẩn dật củanhà vua lặng lẽ trôi qua như dòng suối mát, tưởng thế là đã yên phận. Nào ngờ,bỗng một hôm có người Bà-la-môn đến tìm gặp vua và nói: "Tôi là người đóikhổ không đủ cơm ăn áo mặc. Nghe lời truyền rao của vua Ác-Vương rằng: Ai kiếmđược Ngài thì sẽ được trọng thưởng trăm ngàn lượng vàng và được quan tước lớn.Vì lẽ sống, tôi không quản ngại cực khổ hiểm nguy, trải qua bao ngày tháng lặnlội đó đây để tìm Ngài, thì mãi đến hôm nay mới được gặp".

Vua Hiền-Ðức nghexong, bình thản đáp: "Hiện nay ta không còn gì hết! Thôi thì ta vui lòngcho nhà ngươi cái thân mạng của ta đây, để nhà ngươi đem nộp cho tân vương thìsẽ được trọng thưởng, hưởng giàu sang, quan to chức lớn".

Nghe nhà vua Hiền-Ðứcbảo thế, người Bà-la-môn rất đỗi vui mừng nhưng làm bộ than thở nói: "Vìhoàn cảnh chứ tôi nào có đành lòng làm chuyện nầy đâu!"

Vua Hiền-Ðức từ hòanói với người Bà-la-môn: "Ngươi cứ nên làm theo ý định đã thúc đẩy ngươiđến đây tìm ta. Ta vui lòng xả bỏ thân nầy. Ðời người sớm muộn, già trẻ gì rồicũng một lần chết. Sống mà có ích cho đời thì đáng sống. Còn sống mà không cóích cho đời thì cái sống đó có ý nghĩa gì đâu? Chết mà mà có ích cho ai đượcnhiều, thì ít nhất cái chết của ta cũng giúp được cho ngươi sẽ có đời sống tốtđẹp hơn. Ðời người chỉ là một giấc mơ. Tất cả thế gian nầy đều là tạm bợ mộnghuyễn. Ngươi cứ tự tiện dùng thân mạng ta".

Người Bà-la-môn nói:"Nếu lòng từ bi của Ngài đã quyết, thì xin Ngài vui lòng theo tôi vào kinhthành để tôi hiến Ngài lên cho tân vương".

Nhà vua đôi lời từbiệt thái tử, rồi theo sau người Bà-la-môn để vào kinh thành. Thái tử kêu gàothan khóc, nhưng không dám làm phật lòng vua cha!

Vừa thấy vua Hiền-Ðứctrong phong thái thản nhiên trước bệ rồng của mình thì lòng vua Ác-Vương rấtđỗi ngạc nhiên, không dấu nỗi vui mừng đắc ý và truyền lệnh trọng thưởng chongười Bà-la-môn, đồng thời ra lệnh lập tức giam vua Hiền-Ðức vào ngục tối.

Sau khi nhốt vuaHiền-Ðức vào ngục, Ác-Vương ra lệnh truyền rao cho dân chúng biết ngày xử tửvua Hiền-Ðức bằng cách đốt sống. Dân chúng nghe tin nầy, ai nấy đều xúc độngrơi lệ khóc than như mất một bậc cha hiền. Việc gì đến rồi phải đến. Ngày đưavua Hiền-Ðức lên dàn hỏa diễn ra nơi pháp trường. Dân chúng khắp nơi trong nướcthương tiếc đổ về pháp trường như nước lũ vỡ bờ, để mong được chiêm ngưỡng bậcquốc phụ của họ lần cuối.

Riêng về thái tử, saukhi vua cha rời rừng sâu theo người Bà-la-môn về triều, thì giả dạng làm ngườithợ săn chen lẫn trong đám thường dân đông đảo đến pháp trường. Trước khi bịchâm lửa hành quyết, vua Hiền-Ðức ngước mắt nhìn trời thốt to lên mấy lời tâmhuyết cuối cùng: "Hỡi những người con hiếu thảo hãy noi gương cha mẹ hiềnđức nhân nghĩa mà dùng Từ-Bi-Hỷ-Xả nhân hậu đối xử với mọi người. Nên lấy ânbáo oán, thì oan khiên sẽ tiêu diệt. Không nên lấy thù trả oán thì thù oán sẽchất chồng, mà kiếp kiếp sẽ phải chìm đắm trong vòng sanh tử trả vay. Hãy nhớnhững lời ta đây, hỡi những người con hiếu thảo!"

Sau khi vua Hiền-Ðứcchết, thái tử trở lại núi rừng, nơi vua cha và thái tử đã từng sống qua nhữngngày tháng êm đềm thanh thoát, nhưng bây giờ đây chỉ còn lại kỷ niệm mà thôi.Thái tử một mình một bóng sống lặng lẽ với cỏ cây hoa lá thú rừng. Nhưng đôilúc thái tử nghĩ đến vua cha lòng trào dâng uất hận, quyết tìm cách báo thù.Những lúc ấy, hình ảnh của vua cha hiền từ thản nhiên ngồi trên dàn hỏa thốtlên những lời thống thiết cuối cùng lại hiện rõ về chiếm trọn tim óc của tháitử, làm cho lòng thái tử trở nên bình thản. Ðã nhiều lần nỗi uất hận trào dângthúc dục như thế, nhưng thái tử đều khắc phục dằn lòng được. Có những đêm một mìnhmột bóng dưới ánh trăng thâu, nghĩ đến cái chết của vua cha, nghĩ đến sự tantành của cả một hoàng tộc, lòng thái tử xót xa bất an uất ức, khí xung thiênsôi sục trào dâng.

Thế rồi, vào một ngàykia, nỗi oán hận căm thù xâm chiếm lòng thái tử. Thái tử không còn có thể yêntâm tiếp tục sống trong chốn u tịch rừng già, nên rời bỏ chốn sơn lâm để giảdạng người thường dân lẩn vào chốn kinh thành quyết chờ dịp báo thù cha, đền nợnước cho hả dạ. Nhờ sẵn có bẩm tánh tài trí thông minh với sự khôn ngoan lịch thiệnkhéo léo, nên thái tử đã được người giới thiệu vào làm kẻ tôi tớ giúp việc chomột vị quan đại thần triều đình. Chẳng bao lâu, thái tử đã được phép gần gũi vịquan đại thần và được lòng tin cậy, xem như người tâm phúc, cho làm cận vệ sănsóc hằng ngày. Vị quan đại thần rất đắc ý về người cận vệ tài ba lại chu đáocủa mình. Một hôm, nhân lúc cao hứng, quan đại thần hỏi: "Ngoài việc hằngngày con hầu cận bên ta, con còn có tài đặc biệt nào nữa không?"

Thái tử đáp:"Nghề nào con cũng có thể làm được. Nhưng đặc biệt là nghề nấu ăn thì concó khả năng và thích thú nhất".

Quả thật không sai,sau mấy lần nấu ăn, quan đại thần rất hài lòng về hương vị những món ăn do tháitử nấu. Từ đấy trở đi, quan đại thần lấy làm đắc ý, thường bày yến tiệc mời vuavà các quan đại thần trong triều. Ðặc biệt, mỗi lần vua dự tiệc do thái tử đíchthân đầu bếp thì đều Ác-Vương tấm tắt khen thức ăn đặc biệt ngon. Nhờ sự khéotay, chẳng bao lâu tiếng khen về tài nấu ăn của thái tử được đồn khắp cả hoàngtriều.

Biết được ý vua muốnngười đầu bếp của mình, đồng thời vị quan đại thần nầy cũng muốn đẹp lòng vua,nên đã tiến cử thái tử để cho vua dùng. Nhà vua được người đầu bếp đặc biệtxuất sắc, nên rất đỗi hài lòng. Chẳng bao lâu, thái tử được nhà vua thương mếntin cậy, phong chức quan yến trù để coi việc ăn uống và yến tiệc cho vua. Nhờcách ăn nói khôn ngoan, với tài nấu thức ăn khéo léo, chẳng bao lâu thái tửđược vua xem như người tâm phúc, luôn luôn được gần gũi bên cạnh vua. Từ ngàyđược hôm sớm hầu cận chăm sóc thức ăn cho Ác-Vương, thái tử lại càng tỏ ra tếnhị khôn khéo hiền hậu chân thật, nên Ác-Vương vô cùng thương mến tin cẩn.

Một hôm Ác-Vương bảothái tử chuẩn bị thức ăn để cùng vào rừng săn bắn. Trong lúc Ác-Vương hứng thúmải mê đuổi theo một con nai, nên bỏ đoàn tùy tùng cách xa phía sau. Chỉ cóÁc-Vương và thái tử đuổi theo nai lạc sâu vào rừng già. Ðến trưa, Ác-Vương quámệt mỏi nằm nghỉ dưới gốc cây, trao bảo kiếm cho thái tử cầm giữ. Dưới bóngmát, gió rừng phảng phất hiu hiu, hương rừng thoảng nhẹ, Ác-Vương gối đầu lênbắp vế của thái tử ngủ say lúc nào không hay.

Trong lúc đó, thái tửnghĩ rằng: "Giờ đây kẻ thù đã nằm trong tay ta rồi!" Thái tử rút gươmđịnh chém Ác-Vương. Nhưng ngay khi đó, lời trăn trối của vua cha vang vọng sốngdậy nơi lòng: "Hỡi những người con hiếu thảo! Không nên lấy oán trả oán,thì oán sẽ diệt dứt ... " Rồi thái tử lại nhè nhẹ tra thanh kiếm vào vỏ.Ba lần rút kiếm ra định chém đầu Ác-Vương. Nhưng ba lần hình ảnh của vua chaHiền Ðức hiện rõ về trong tâm thức với lời trăng trối thống thiết trước khichết trên dàn hỏa đỏ rực, làm cho thái tử ngừng tay.

Ác-Vương giựt mìnhtỉnh giấc hoảng hốt kêu to trong giọng nói kinh hoàng, đôi mắt trân trân nhìnthái tử nói: "Vừa rồi trẫm chiêm bao thấy có người cầm gươm muốn giếttrẫm! Kinh khủng quá!"

Thái tử từ tốn lễ độthưa: "Tâu Bệ-hạ! Có lẽ bệ hạ vì quá mỏi mệt, nên ngủ chiêm bao thế thôi.Có hạ thần đây rồi, ai mà dám hại Bệ-hạ! Xin Bệ-hạ cứ yên tâm".

Ác-Vương nghe ngườiđầu bếp tâm phúc của mình nói thế, lấy làm yên lòng rồi năm ngủ tiếp. Nhưngchẳng bao lâu, nhà vua lại giựt mình hoảng hốt thốt lên: "Trẫm chiêm baothấy có người rút gươm muốn giết trẫm!" Ðến lần chiêm bao thứ ba, Ác-Vươngquá kinh hãi về giấc mộng khủng khiếp, nên ngồi chỗi dậy kể cho thái tử nghe:"Trong giấc chiêm bao, trẫm thấy rõ thái tử con vua Hiền-Ðức rút gươm muốnchém ta! Lạ thật! Tại sao chỉ trong thời gian ngắn, mà trẫm đã ba lần chiêm baogiống nhau như thế nầy?" Ác-Vương rất đỗi lo âu cho mệnh hệ của mình.

Thái tử thấy thái độcủa Ác-Vương bàng hoàng khủng hoảng, động mối từ tâm, không còn muốn che dấunỗi lòng sâu kín đã ấp ủ từ lâu, liền bày tỏ tự sự với Ác-Vương: "TâuBệ-hạ! Bệ-hạ có biết chăng? Con của tiên vương Hiền-Ðức chính là hạ thần đây!Trong khi Bệ-hạ mỏi mệt say mê trong giấc ngủ, hạ thần đã ba lần rút gươm toanmuốn chém đầu Bệ-hạ để trả thù cho Phụ-vương. Nhưng nhớ lại lời phụ vương củahạ thần khi bị đưa lên dàn hỏa bức tử, trước khi nhắm mắt, người còn thốngthiết căn dặn: "Hỡi những người con hiếu thảo! Không nên lấy oán báo oán,oán sẽ chất chồng. Nên lấy ân trả oán, thì oán sẽ dứt diệt ..." Do vậy màhạ thần đã dừng tay. Và sáng nay, khi mải mê rượt đuổi nai, hạ thần cố ý làmcho Bệ-hạ lạc vào rừng sâu, chứ đâu phải hạ thần không biết lối ra! Hạ thần đãcó những việc lỗi lầm như thế, xin Bệ-hạ tùy ý xử phạt".

Ác-Vương nghe thái tửthuật xong, rất đỗi xúc động phán rằng: "Ta rất khâm phục tiên vương làbậc nhân đức.Ta rất xúc động quý mến khanh là kẻ chí hiếu đáng nêu gương chođời noi theo. Còn so lại ta đây, thật quả là kẻ quá tham ác tàn nhẫn. Giờ đâyta hiểu rõ điều thiện lẽ ác rồi. Ðúng lúc ta vui lòng đền tội để giải nỗi oankhiên khổ tâm thầm kín của khanh bấy lâu".

Nghe qua những lờinầy, thái tử quá xúc động quỳ khóc trước mặt Ác-Vương, rồi ngước mặt lên trờiphát nguyện những lời thống thiết: "Giữa Bệ-hạ và tiểu thàn nầy kể từ naytrở đi không còn thù hận gì nửa. Xin Trời Ðất và Phụ-vương chứng cho lòng thànhcủa con!"

Ác-Vương cảm động nắmlấy tay của thái tử rưng rưng rơi lệ, nghẹn ngào thốt không nên lời. Thế rồihai người, Ác-Vương và thái tử cùng nhau ra khỏi rừng già, thì thấy đoàn tùytùng đều lộ vẻ lo âu cho nhà vua, họ đã chờ đợi nhà vua từ lúc nào.

Ác-Vương hướng về đámquần thần tùy tùng nói lớn: "Các khanh hãy nghe đây! Hôm nay ta muốn chocác khanh biết một điều tối quan trọng. Các khanh có biết thái tử con của tiênvương Hiền-Ðức giờ nầy đang ở đâu không?"

Mọi người đều ngơ ngácnhìn nhau trước câu hỏi bất ngờ của Ác-Vương. Thì trong đám tùy tùng có một đạithần bước ra quỳ gối tâu rằng: "Tâu Bệ-hạ! Khi hành quyết hỏa thiêu vuaHiền-Ðức, thì thái tử con của vua ấy đã thất kinh hồn vía chạy lạc mất cho đếnnay, không còn biết tông tích ở đâu nữa cả".

Ác-Vương xoay lại nắmlấy tay thái tử giơ cao lên hướng về mọi người mà phán to rằng: "Ðây chínhlà thái tử con của tiên vương Hiền-Ðức. Ðúng là một người con chí hiếu, một bậctrung thần nhân hậu, không trả thù, mà lấy ân báo oán. Nhờ đức tánh trung hậuquân tử đó, nên ta còn được sống mà gặp lại các khanh nơi đây. Nếu không, ta đãrơi đầu nơi rừng sâu, đâu còn có cơ hội gặp lại các khanh nữa. Nay ta quyếtđịnh trả nước lại cho thái tử và làm lễ đăng quang để thái tử lên ngôi kế vìtiên vương Hiền-Ðức. Từ đây hai nước kết giao thân hữu".

Trước lời tuyên bố bấtngờ của Ác-Vương, quần thần ngơ ngác ngạc nhiên. Sau đó, thái tử được suy tônlên ngôi vua, dân chúng cả nước vạn triệu người như một hân hoan khấp khởi vuimừng, âu ca lạc nghiệp.

Giảng xong câu chuyệntiền kiếp trên đây, đức Phật hướng về đại chúng nói rằng: "Vị Ác-Vương ởthời quá khứ kia chính là Ðề-Bà Ðạt-Ða. Còn vị thái-tử trung hiếu kia là tiềnthân của A-Nan. Vị vua Hiền-Ðức thời quá khứ đó chính là tiền thân của Thích-CaNhư-Lai đây vậy".

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/02/2022(Xem: 6933)
Hai năm trước, khi tin Hòa Thượng Thích Minh Tâm viên tịch lan truyền khắp năm châu, ai ai cũng ngỡ ngàng thương tiếc. Hầu như các tự viện trên thế giới đều tổ chức lễ tưởng niệm tri ân Ngài. Tu Viện Quảng Đức cũng không ngoại lệ, buổi lễ truy niệm đã được tổ chức một cách trang nghiêm, trọng thể. Sau đó TT Thích Nguyên Tạng đã lên chương trình Hành Hương Âu Châu vào cuối tháng 7 năm 2015, với mục đích chính là tham dự lễ Đại Tường Tưởng Niệm HT Thích Minh Tâm, đồng thời dự lễ Khánh thành Chùa Khánh Anh. Phật tử TVQĐ thật hoan hỷ với tin này và đã cùng nhau lập ra kế hoạch tiết kiệm để tham dự chuyến Hành Hương Âu Châu.Thời gian hai năm tưởng là lâu, nhưng thoắt một cái ngày đi đã gần kề, mọi người nô nức chuẩn bị hành trang để lên đường. Phái đoàn Hành Hương có 83 người gồm:Melbourne: 38 người; Sydney: 21 người; Perth: 9 người;Adelaide: 5 người.
07/02/2022(Xem: 17730)
Kính đa tạ Thầy đã giới thiệu 14 lời vàng của HT Thích Trí Tịnh (1916-2014 ) một Bồ Tát thị hiện đã mang kho tàng kinh các đến với Phật Tử VN trong và ngoài nước nhưng cuối cùng di chúc để lại cho đời chỉ vỏn vẹn 14 lời vàng này lại là Kim Chỉ Nam cho những ai muốn tu tập giải thoát ( LÀM LÀNH-LÁNH DỮ-THƯƠNG NGƯỜI- THƯƠNG VẬT-ĂN CHAY-NIỆM PHẬT -TỤNG KINH ) và Bộ Toàn tập Kinh Hoa Nghiêm 4 quyển cũng như Ngũ Kinh Tịnh Độ mà Ngài đã thọ trì hằng ngày từ A lại da thức khởi phát.
24/01/2022(Xem: 5215)
Tuyển tập Hành Hương Tứ Đại Danh Sơn Trung Quốc 2007 do Tu Viện Quảng Đức tổ chức
19/01/2022(Xem: 5460)
Dân tộc Việt Nam học và hành theo giáo lý Phật thuyết trên dưới hai nghìn năm trước khi Pháp sư Huyền Trang quy Phật cũng trên sáu thế kỷ, tuy vậy cho đến nay chúng đệ tử Phật, xuất gia cũng như tại gia, biết đến công hạnh của Ngài rất ít, và cũng biết rất ít di sản Kinh Luận của Ngài cho Phật tử Việt nam học và hiểu giáo pháp của Đức Thế Tôn một cách chân chính để hành trì chân chính. Bản dịch Đại Đường Tây vực ký của Hòa Thượng Như Điển với sự đóng góp của Cư sĩ Nguyễn Minh Tiến bổ túc cho sự thiếu sót này. Từ những hiểu biết để thán phục, kính ngưỡng một Con Người vĩ đại, hãn hữu, trong lịch sử văn minh tiến bộ của nhân loại, một vị Cao Tăng thạc đức, với nghị lực phi thường, tín tâm bất hoại nơi giáo lý giải thoát, một thân đơn độc quyết vượt qua sa mạc nóng cháy mênh mông để tìm đến tận nguồn suối Thánh ngôn rồi thỉnh về cho dân tộc mình cùng thừa hưởng nguồn pháp lạc. Không chỉ cho dân tộc mình mà cho tất cả những ai mong cầu giải thoát chân chính.
04/01/2022(Xem: 6166)
Không hiểu sao mỗi khi nhớ về những sự kiện của năm 1963 lòng con bổng chùng lại, bồi hồi xúc động về quá khứ những năm đen tối xảy đến gia đình con và một niềm cảm xúc khó tả dâng lên...nhất là với giọng đọc của Thầy khi trình bày sơ lược tiểu sử Đức Ngài HT Thích Trí Quang ( một sưu tầm tài liệu tuyệt vời của Giảng Sư dựa trên “ Trí Quang tự truyện “ đã được đọc tại chùa Pháp Bảo ngày 12/11/2019 nhân buổi lễ tưởng niệm sự ra đi của bậc đại danh tăng HT Thích Trí Quang và khi online cho đến nay đã có hơn 45000 lượt xem). Và trước khi trình pháp lại những gì đã đươc nghe và đi sâu vào chi tiết bài giới thiệu Bộ Pháp Ảnh Lục cùng lời cáo bạch của chính Đức Ngài HT Thích Trí Quang về bộ sách này, kính trich đoạn vài dòng trong tiểu sử sơ lược của HT Thích Trí Quang do Thầy soạn thảo mà con tâm đắc nhất về;
04/01/2022(Xem: 5074)
Trên đất nước ta, rừng núi nào cũng có cọp, nhưng không phải vô cớ mà đâu đâu cũng truyền tụng CỌP KHÁNH HÒA, MA BÌNH THUẬN. Tỉnh Bình Thuận có nhiều ma hay không thì không rõ, nhưng tại tỉnh Khánh Hòa, xưa kia cọp rất nhiều. Điều đó, người xưa, nay đều có ghi chép lại. Trong sách Hoàng Việt Nhất Thống Dư Địa Chí (1) của Thượng Thư Bộ Binh Lê Quang Định soạn xong vào năm 1806 và dâng lên vua Gia Long (1802-1820), tổng cộng 10 quyển chép tay, trong đó quyển II, III và IV có tên là Phần Dịch Lộ, chép phần đường trạm, đường chính từ Kinh đô Huế đến các dinh trấn, gồm cả đường bộ lẫn đường thủy. Đoạn đường ghi chép về ĐƯỜNG TRẠM DINH BÌNH HÒA (2) phải qua 11 trạm dịch với đoạn đường bộ đo được 71.506 tầm (gần 132 km)
04/01/2022(Xem: 4093)
Ngoài tên “thường gọi” là Cọp, là Hổ, tiếng Hán Việt là Dần, cọp còn có tên là Khái, là Kễnh, Ba Cụt (cọp ba chân), Ba Ngoe (cọp ba móng), Ông Chằng hay Ông Kẹ, Ông Dài, Ông Thầy (cọp thành tinh). Dựa vào tiếng gầm của cọp, cọp còn có tên gọi là Hầm, là Hùm, dựa vào sắc màu của da là Gấm, là Mun ... Ở Nam Bộ cò gọi cọp là Ông Cả, vì sợ cọp quấy phá, lập miếu thờ, tôn cọp lên hàng Hương Cả là chức cao nhất trong Ban Hội Tề của làng xã Nam Bộ thời xưa. Cọp cũng được con người gọi lệch đi là Ông Ba Mươi. Con số ba mươi này có nhiều cách giải thích: - Cọp sống trung bình trong khoảng ba mươi năm. - Cọp đi ba mươi bước là quên hết mọi thù oán. - Xưa, triều đình đặt giải, ai giết được cọp thì được thưởng ba mươi đồng, một món tiền thưởng khá lớn hồi đó. - Tuy nhiên, cũng có thời, ai bắt, giết cọp phải bị phạt ba mươi roi, vì cho rằng cọp là tướng nhà Trời, sao dám xúc phạm (?). Ngày nay, cọp là loài vật quý hiếm, có trong sách Đỏ, ai giết, bắt loài thú này không những bị phạt tiền mà còn ở
30/12/2021(Xem: 5340)
Tối ngày 11/02 âm lịch (03/03/2012), vào lúc 10 giờ tối, lúc đó tôi niệm Phật ở dưới hai cái thất mà phía trên là phòng của Sư Ông. Khi khóa lễ vừa xong, bỗng nghe (thấy) tiếng của đầu gậy dọng xuống nền phát ra từ phòng của Sư Ông. Lúc đó tôi vội vàng chạy lên, vừa thấy tôi, Ông liền bảo: “Lấy cái đồng hồ để lên đầu giường cho Sư Ông và lấy cái bảng có bài Kệ Niệm Phật xuống” (trong phòng Sư Ông có treo cái bảng bài Kệ Niệm Phật). Khi lấy xuống Sư Ông liền chỉ vào hai câu: Niệm lực được tương tục, đúng nghĩa chấp trì danh, rồi Sư Ông liền chỉ vào mình mà ra hiệu, ý Sư Ông nói đã được đến đây, sau khi ngồi hồi lâu Sư Ông lên giường nghỉ tiếp.
25/12/2021(Xem: 3884)
Cảo San đường Tuệ Nguyên Đại Tông sư (고산당 혜원대종사, 杲山堂 慧元大宗師) sinh ngày 8 tháng 12 năm 1933 tại huyện Ulju, Ulsan, một thành phố nằm ở phía đông nam Hàn Quốc, giáp với biển Nhật Bản. Ngài vốn sinh trưởng trong tộc phả danh gia vọng tộc, phụ thân Họ Ngô (해주오씨, 海州吳氏), Haeju, Bắc Triều Tiên và tộc phả của mẫu thân họ Park (밀양박씨, 密陽朴氏), Miryang, Gyeongsangnam-do, Hàn Quốc. Năm lên 7 tuổi, Ngài được sự giáo huấn của người cha kính yêu tuyệt vời, cụ đã dạy các bộ sách Luận ngữ, Mạnh Tử, Thích Độ, Đại Học, Tứ Thư và học trường tiểu học phổ thông. Vào tháng 3 năm Ất Dậu (1945), khi được 13 tuổi, Bồ đề tâm khai phát để làm tiền đề cho Bát Nhã đơm bông, Ngài đảnh lễ Đại Thiền sư Đông San Tuệ Nhật (동산혜일대선사, 東山慧日大禪師, 1890-1965) cầu xin xuất gia tu học Phật pháp. Thật là “Đàm hoa nhất hiện” khi những sợi tóc não phiền rơi rụng theo từng nhát kéo đong đưa. Tháng 3 năm 1948, Ngài được Hòa thượng Bản sư truyền thụ giới Sa di tại Tổ đình Phạm Ngư Tự (범어사, 梵魚寺), Geumjeong-gu, Busan, Hàn Qu
23/12/2021(Xem: 3006)
Chánh Điện của một ngôi Chùa tại xứ Đức, cách đây hơn 40 năm về trước; nơi có ghi hai câu đối: "Viên thành đạo nghiệp Tây Âu quốc. Giác ngộ chúng sanh đạo lý truyền", bây giờ lại được trang hoàng thật trang nghiêm và rực rỡ với các loại hoa. Đặc biệt nhất vẫn là những chậu cây Trạng Nguyên nhỏ to đủ kiểu, nổi bật nhất vẫn là những chiếc lá đỏ phía trên phủ lên những chiếc lá xanh bên dưới. Ai đã có ý tưởng mang những cây Nhất Phẩm Hồng, có nguồn gốc ở miền Nam Mexico và Trung Mỹ vào đây? Và theo phong thủy, loại cây này mang đến sự thành công, đỗ đạt và may mắn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567