Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

31. Sư tử và con chim nhỏ

26/03/201108:33(Xem: 6136)
31. Sư tử và con chim nhỏ

CHUYỆN PHẬT ĐỜI XƯA
Đoàn Trung Còn biên soạn, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính

SƯ TỬ VÀ CON CHIM NHỎ

Một buổi sáng kia, vừa mới rạng đông, vua sư tử thức dậy, đứng yên không lay động. Rồi chúa sơn lâm rống lên một tiếng chấn động cả đất trời. Liền đó, các loài thú đều nằm mọp, các loài chim đều xếp cánh rơi xuống. Khi ấy sư tử mới đi kiếm ăn. Gặp một con voi, sư tử giết voi và xé thịt ăn tươi. Chẳng may có một cái xương voi chặn ngang nơi cuống họng, không cách chi lấy ra được. Sư tử bị mắc xương, lấy làm đau nhức, sống thì khó chịu, mà chết cũng không xong!

Bỗng đâu có một con chim nhỏ đang bắt sâu, thấy sư tử rên la thì dừng lại đứng nhìn. Sư tử liền mở toác hàm ra và nói rằng: “Này chim ơi! Như ngươi gắng cứu được ta thì ta không quên ơn ngươi. Về sau, kiếm được mồi ta sẽ chia cho ngươi.”

Chim nghe nói động lòng, mới bay vào miệng sư tử và ráng hết sức mổ rớt miếng xương ra. Sư tử nhờ đó mà thoát hiểm.

Vài hôm sau, sư tử đi kiếm ăn, được thịt rất nhiều. Chim nhỏ đậu gần đó, ngỏ lời xin chút ít đồ ăn. Sư tử không thèm đáp, lại ngâm một bài thơ để chế nhạo chim rằng:

Oai quyền một cõi chúa sơn lâm,

Quen tánh nhai bay, lũ thú cầm.

Mặc sức ăn tươi, xương chất đống.

Tha hồ xơi nóng, thịt đầy mâm.

Vì ngươi trót dại nên ta bảo,

Này chúa đã dung thả khỏi hàm.

Một lúc khá thương nên chẳng nỡ,

Sao mày lại vội phụ ơn thâm?

Ấy là nó bảo con chim nhỏ phải nhớ ơn nó đã tha cho thoát ra khỏi hàm mà không nhai xác. Đã vậy sao còn dám đòi hỏi nó chia thức ăn cho?

Chim nhỏ nghe xong liền ngâm một bài hoạ lại rằng:

Nhỏ nhen chút phận chốn sơn lâm.

Nên chẳng nề chi mạng tiểu cầm.

Nào phải kể ra ơn chút dạ,

Mà sao lại tiếc thịt đầy mâm?

Ví chăng đó trọn lời nguyền trước,

Thì tớ còn phen cứu lấy hàm.

Vẹn vẽ đôi bên ta xử khéo,

Tấm lòng quân tử tớ ghi thâm.

Ấy là nó nhắc khéo, giữ theo lễ phép của kẻ bề dưới, nhưng cũng ngầm đe sư tử rằng “lần này còn lần khác”. Song sư tử chẳng đếm xỉa gì đến, bỏ đi.

Chim mới nghĩ rằng: “Mình ra ơn cứu lấy mạng nó, mà nó trở lại khinh thị mình. Bây giờ ta phải quyết theo sau mà trả thù. Nếu chẳng rửa được hận, thề chẳng đội trời chung.”

Từ đó, chim cứ bay theo mãi. Đâu đâu, nó cũng bám sát theo sư tử mà chờ dịp. Một bữa kia, sư tử giết rất nhiều con thú, ăn thật no nê rồi nằm lăn ra ngủ, không lo sợ đề phòng chi cả. Chim nhỏ mới bay lại gần, đậu lên trán sư tử, rồi dùng hết sức lực mà mổ lọt ra hết một tròng mắt. Sư tử đau đớn sảng sốt, vùng dậy ngó quanh quất chẳng thấy ai, duy chỉ có một con chim nhỏ đậu trên cây, mới hỏi rằng: “Vì sao ngươi lại mổ đui mắt ta?”

Chim chậm rãi đáp lại rằng một bài thơ rằng:

Này ai là kẻ phụ ơn sâu.

Đem tấm lòng nhân chuốc lấy thù.

Rày đã dung cho còn một mắt,

Ấy là giúp đó nghĩa thâm sâu.

Chúa lâm oai dữ từng ngang ngửa,

Chim chóc thân hèn dễ khật khù!

Rày kíp đôi ta thôi tách nẻo,

Cũng đừng để hận mãi cho nhau.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/10/2010(Xem: 2982)
Hằng Nga trong cung trăng: Theo sách của Hoài Nam Tử, Hậu Nghệ xin thuốc trường sinh của bà Tây Vương Mẫu, Hằng Nga là vợ của Hậu Nghệ uống trộm...
27/10/2010(Xem: 20249)
Mục đích của chúng tôi trong khi sưu tập những mẫu chuyện kể này là để mọi người thưởng thức những tinh hoa hay đẹp của giáo – lý qua những câu chuyện tươi sáng đẹp đẽ. Nếu công việc sưu tập ca – dao là một việc khó thì công việc sưu tập và trình bày những mẩu chuyện cổ của đạo Phật cũng là một việc khó khăn và đòi hỏi sự hợp lực của nhiều người. Hàng chục ngàn mẫu chuyện đạo, nào thuộc loại tiền thân, nào thuộc loại lịch sử, nào thuộc loại thí dụ, nào thuộc loại triết lý. . . những câu chuyện đó thật là phong phú và chứa đựng những tinh hoa của giáo - lý, từ - bi và trí tuệ. . . Ðọc những mẫu chuyện đạo ấy, không ai thấy chán nản cả. Các em thiếu nhi thích đã đành, người lớn chúng ta cũng vẫn thích và hơn thế nữa, lắm lúc cũng phải suy nghĩ nhiều để có thể hiểu được triết – lý của một câu chuyện. Chúng tôi sức lực không bao lăm thành thử trông mong rất nhiều ở các vị học giả thâm uyên và dày công nghiên cứu. Chúng tôi chỉ muốn làm công việc nói lên những nguyện vọng, và tr
22/10/2010(Xem: 3853)
Tại biên giới của tỉnh Tây Khương sát với Tây Tạng, có một bà lão sống cô độc, chồng và đứa con trai duy nhất của bà đã qua đời. Bà sống nhờ một thửa đất nhỏ trồng những hạt ngũ cốc. Vì cuộc đời đã trải qua nhiều gian truân từ nhỏ, bà lão cảm thấy nghiệp chướng trong người rất nặng nên đã cố công tìm hỏi những người chung quanh phương pháp chuộc tội để cầu xin cho tâm hồn được bình yên.
21/10/2010(Xem: 8366)
Bị xổng một lần trong khóa tu học kỳ 6 tại Bỉ, vì chọn ngày hè trật đường rầy (hãng tôi làm việc phải chọn hè từ đầu tháng 2); năm sau, tôi quyết tâm canh ngày giờ cho đúng để tham dự cho bằng được khóa tu học kỳ 7 tại Đan Mạch, do Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Âu Châu tổ chức.
19/10/2010(Xem: 7941)
Khi xe chúng tôi đến nơi, đồng hồ chỉ đúng 12 giờ khuya. Phòng ốc dành cho 300 giường đã không còn chỗ trống. Ban Tổ Chức đành trưng dụng phòng họp, phòng học - một cho phái nữ, một cho phái nam - với các tấm nệm lót dưới đất cho chúng tôi ngủ tạm. Giải quyết một lúc cho phái đoàn Thụy Sĩ 30 người - chưa kể các nước khác - đâu phải dễ. Vả lại đi chùa thì phải chấp nhận "ăn chay nằm đất". Nằm "đất" còn phải chịu, lựa là nằm "nệm", nên chúng tôi vui vẻ nhận lời, không than van gì cả. Mà than van nỗi gì được khi đã hiểu giáo lý (dù chút chút) của đạo Phật. Mọi sự phải do "duyên" mà có. Và "duyên" này khởi từ "nhân" chiều nay.
17/10/2010(Xem: 9441)
Hơn 6 tiếng xe lửa từ Aschaffenburg, tôi trở về đến nhà gần 10 giới tối. Lục đục tắm rửa, ăn chén súp nóng (do chồng nấu cho) huyên thuyên kể chuyện, rồi đánh răng... mãi gần 12 giờ khuya tôi mới lên giường đi ngủ. Sáng sớm hôm sau 6 giờ thức dậy sửa soạn đi... cày. Công việc ứ đọng của 2 ngày thứ 5, thứ 6 (lấy hè, cộng với công việc của thứ 2 đầy ắp trên bàn. Tôi một mình chịu trách nhiệm một phòng không ai thay thế). Ông xếp trước khi về văn phòng còn đứng đó chờ đợi, vẻ lo âu. Tôi trấn an ông:
17/10/2010(Xem: 4707)
Tết Trung Thu ăn vào ngày rằm tháng 8. Nguyên cuối đời nhà Tây Hán (206 trước 23 sau D.L.), Vương Mãng nhân được cầm giữ chính quyền...
17/10/2010(Xem: 2911)
Một vị thương gia lập nghiệp từ tay trắng, sau kiếm được rất nhiều tiền nhưng vì buôn bán trong thời kinh tế không ổn định, khiến anh ta trở nên phá sản, nợ nần chồng chất. Nghĩ mãi không tìm ra cách giải quyết, anh ta bèn ra bờ sông tự tử. Vào lúc canh ba một đêm nọ, anh ta đến trước bờ sông, bỗng nhiên nhìn thấy một thiếu nữ đang ngồi khóc thảm thiết, anh bèn đến hỏi cô gái: - Có chuyện gì mà đêm hôm khuya khoắt cô ngồi khóc một mình ở đây?
16/10/2010(Xem: 4069)
Hàng ngàn năm trước tây lịch, khi thổ dân Dravidian còn ngự trị khắp lãnh thổ Ấn Độ cổ thời, vùng phía tây Hy Mã Lạp Sơn là lãnh địa của rắn. Vốn là vùng rừng núi bạc ngàn nằm trên nóc nhà thế giới, Hy Mã Lạp Sơn là nơi thâm u bí hiểm với sơn lam chướng khí trùng trùng và vô số loài thú dữ cư ngụ sẵn sàng lấy mạng người để làm thức ăn. Thời đó, thổ dân Dravidian không có đủ vũ khí hùng mạnh để chống cự với các loài mãnh thú và tự bảo vệ mình. Từng người vào rừng săn tìm thức ăn đã không thấy trở về. Độc địa nhất không phải chỉ là những hổ, cọp, gấu, beo nằm lồ lộ chờ mồi bên bờ suối, dưới gốc cây hay trong khe đá, mà ngay bên dưới lớp lá khô mục của đường rừng là những loài rắn nguy hiểm chực chờ bước chân người.
16/10/2010(Xem: 3724)
Trong thiền không có đầu đuôi, khúc chiết, lý luận. Nó đập vỡ lý luận. Đó là thế giới lý tưởng của câu thơ lớp ba mồ côi luận lý. Thế giới của những câu cuối lấc cấc, mẹ gà con vịt. Đừng bắt tôi giải thích; hãy lang thang với tôi trong câu cuối của dăm ba chuyện thiền nổi tiếng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]