Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

23. Biết chuyện đời sau

26/03/201108:33(Xem: 5973)
23. Biết chuyện đời sau

CHUYỆN PHẬT ĐỜI XƯA
Đoàn Trung Còn biên soạn, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính

BIẾT CHUYỆN ĐỜI SAU

Thuở xưa, có hai người bạn thân. Vợ của hai người đều có thai cùng lúc, mới đính ước với nhau thế này: “Nếu hai trẻ sanh ra, một trai, một gái, thì ngày sau cho kết làm vợ chồng.” Sau quả nhiên là một nhà sanh trai, một nhà sanh gái. Nhưng rồi cuộc sống trôi nổi, mỗi người lưu lạc một phương không còn biết gì tin tức của nhau.

Rồi chẳng may người cha đứa bé trai chết sớm. Lớn lên mồ côi cha, chàng trai chỉ sống với mẹ, thường đi buôn bán nuôi mẹ, chưa tính đến chuyện gia thất.

Một hôm, trong khi đi bán hàng, chàng tình cờ lại ghé đúng vào nhà người bạn của cha mình ngày xưa, người đã sanh ra đứa con gái. Cha nàng hỏi thăm quê quán, cha mẹ của chàng. Chàng đem chuyện nhà thưa lại đành rành. Nghe xong, cha nàng lấy làm ngạc nhiên, mừng rỡ nói rằng: “Hồi cha cháu còn sống, cùng ta kết tình bằng hữu và có cùng ta giao ước rằng, nếu sanh con ra một trai, một gái, thì cho kết làm vợ chồng. Ta có ý tìm cháu đã lâu nhưng không biết ở nơi nào, nên con gái ta còn chưa dám gả chồng.” Chàng trai thưa rằng: “Nào cháu có hay biết gì đâu!” Người cha cô gái bảo chàng cứ về hỏi lại mẹ thì rõ.

Chàng về nhà đem chuyện ấy kể lại với mẹ. Bà mẹ nhận là có thật. Chàng mới trở qua bên nhà cô gái.

Dọc đường, bỗng thấy một cái suối nước chảy mãi vào một cái sọ, mà sọ không đầy. Chàng sợ lắm. Đi nữa, gặp một cái cây trái chín sai oằn. Chàng đưa tay toan hái ít trái để ăn, thì bao nhiêu trái khác đều nói rộ lên rằng: “Này, hái tôi đi! Này, hái tôi đi.” Chàng ta sợ quá, chạy đi rất mau và vấp chân té. Đi nữa, vừa tới nhà cô gái thì có một con chó chạy ra chào, quỳ hai chân trước xuống và thè lưỡi liếm chân chàng. Nhưng trong bụng chó, lại có tiếng chó sủa lên toan cắn chàng. Chàng sảng sốt, té nằm trên đất. Lát sau, chàng mới hoàn hồn đứng dậy. Gặp người cha cô gái đi ra để đón chàng, chàng bèn đem hết những chuyện khi nãy mà thuật lại.

Ông già vào nhà nói với con gái. Nàng giải thích rằng: “Đi dọc đường thấy suối nước chảy mãi vào một cái sọ không đầy, nghĩa là trong những đời sau, người ta tom góp tất cả những tiền của châu báu để dâng lên cho một người, mà không khi nào thoả cái lòng tham lam của người ấy. Thấy cây sai oằn trái chín, muốn hái ít trái mà ăn, nhưng trái lại giành nhau mà bảo phải hái mình, nghĩa là khi hỏi cưới cô gái lớn trong nhà, thì cô gái nhỏ ngăn lại và hỏi sao chẳng cưới mình. Con chó chạy ra chào, chân thì quỳ, lưỡi thì liếm, mà trong bụng lại sủa lên và muốn cắn, nghĩa là người đời bề ngoài rất dịu ngọt, mà bề trong chứa những gươm đao, vẻ mặt ra tuồng vui vẻ mà tấm lòng đầy những mưu kế độc địa. Ấy là những việc trong các đời sau, chứ bây giờ thì chưa có.”

Chàng trai này với cô gái nọ, một người thấy, một người hiểu những chuyện đời sau, thật rất xứng đôi vừa lứa, được kết nghĩa trăm năm theo lời giao ước của hai người cha là bạn với nhau, quả thật là nhân duyên tiền định.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/10/2010(Xem: 3052)
Hằng Nga trong cung trăng: Theo sách của Hoài Nam Tử, Hậu Nghệ xin thuốc trường sinh của bà Tây Vương Mẫu, Hằng Nga là vợ của Hậu Nghệ uống trộm...
27/10/2010(Xem: 20415)
Mục đích của chúng tôi trong khi sưu tập những mẫu chuyện kể này là để mọi người thưởng thức những tinh hoa hay đẹp của giáo – lý qua những câu chuyện tươi sáng đẹp đẽ. Nếu công việc sưu tập ca – dao là một việc khó thì công việc sưu tập và trình bày những mẩu chuyện cổ của đạo Phật cũng là một việc khó khăn và đòi hỏi sự hợp lực của nhiều người. Hàng chục ngàn mẫu chuyện đạo, nào thuộc loại tiền thân, nào thuộc loại lịch sử, nào thuộc loại thí dụ, nào thuộc loại triết lý. . . những câu chuyện đó thật là phong phú và chứa đựng những tinh hoa của giáo - lý, từ - bi và trí tuệ. . . Ðọc những mẫu chuyện đạo ấy, không ai thấy chán nản cả. Các em thiếu nhi thích đã đành, người lớn chúng ta cũng vẫn thích và hơn thế nữa, lắm lúc cũng phải suy nghĩ nhiều để có thể hiểu được triết – lý của một câu chuyện. Chúng tôi sức lực không bao lăm thành thử trông mong rất nhiều ở các vị học giả thâm uyên và dày công nghiên cứu. Chúng tôi chỉ muốn làm công việc nói lên những nguyện vọng, và tr
22/10/2010(Xem: 3929)
Tại biên giới của tỉnh Tây Khương sát với Tây Tạng, có một bà lão sống cô độc, chồng và đứa con trai duy nhất của bà đã qua đời. Bà sống nhờ một thửa đất nhỏ trồng những hạt ngũ cốc. Vì cuộc đời đã trải qua nhiều gian truân từ nhỏ, bà lão cảm thấy nghiệp chướng trong người rất nặng nên đã cố công tìm hỏi những người chung quanh phương pháp chuộc tội để cầu xin cho tâm hồn được bình yên.
21/10/2010(Xem: 8610)
Bị xổng một lần trong khóa tu học kỳ 6 tại Bỉ, vì chọn ngày hè trật đường rầy (hãng tôi làm việc phải chọn hè từ đầu tháng 2); năm sau, tôi quyết tâm canh ngày giờ cho đúng để tham dự cho bằng được khóa tu học kỳ 7 tại Đan Mạch, do Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Âu Châu tổ chức.
19/10/2010(Xem: 8229)
Khi xe chúng tôi đến nơi, đồng hồ chỉ đúng 12 giờ khuya. Phòng ốc dành cho 300 giường đã không còn chỗ trống. Ban Tổ Chức đành trưng dụng phòng họp, phòng học - một cho phái nữ, một cho phái nam - với các tấm nệm lót dưới đất cho chúng tôi ngủ tạm. Giải quyết một lúc cho phái đoàn Thụy Sĩ 30 người - chưa kể các nước khác - đâu phải dễ. Vả lại đi chùa thì phải chấp nhận "ăn chay nằm đất". Nằm "đất" còn phải chịu, lựa là nằm "nệm", nên chúng tôi vui vẻ nhận lời, không than van gì cả. Mà than van nỗi gì được khi đã hiểu giáo lý (dù chút chút) của đạo Phật. Mọi sự phải do "duyên" mà có. Và "duyên" này khởi từ "nhân" chiều nay.
17/10/2010(Xem: 9717)
Hơn 6 tiếng xe lửa từ Aschaffenburg, tôi trở về đến nhà gần 10 giới tối. Lục đục tắm rửa, ăn chén súp nóng (do chồng nấu cho) huyên thuyên kể chuyện, rồi đánh răng... mãi gần 12 giờ khuya tôi mới lên giường đi ngủ. Sáng sớm hôm sau 6 giờ thức dậy sửa soạn đi... cày. Công việc ứ đọng của 2 ngày thứ 5, thứ 6 (lấy hè, cộng với công việc của thứ 2 đầy ắp trên bàn. Tôi một mình chịu trách nhiệm một phòng không ai thay thế). Ông xếp trước khi về văn phòng còn đứng đó chờ đợi, vẻ lo âu. Tôi trấn an ông:
17/10/2010(Xem: 4819)
Tết Trung Thu ăn vào ngày rằm tháng 8. Nguyên cuối đời nhà Tây Hán (206 trước 23 sau D.L.), Vương Mãng nhân được cầm giữ chính quyền...
17/10/2010(Xem: 2980)
Một vị thương gia lập nghiệp từ tay trắng, sau kiếm được rất nhiều tiền nhưng vì buôn bán trong thời kinh tế không ổn định, khiến anh ta trở nên phá sản, nợ nần chồng chất. Nghĩ mãi không tìm ra cách giải quyết, anh ta bèn ra bờ sông tự tử. Vào lúc canh ba một đêm nọ, anh ta đến trước bờ sông, bỗng nhiên nhìn thấy một thiếu nữ đang ngồi khóc thảm thiết, anh bèn đến hỏi cô gái: - Có chuyện gì mà đêm hôm khuya khoắt cô ngồi khóc một mình ở đây?
16/10/2010(Xem: 4126)
Hàng ngàn năm trước tây lịch, khi thổ dân Dravidian còn ngự trị khắp lãnh thổ Ấn Độ cổ thời, vùng phía tây Hy Mã Lạp Sơn là lãnh địa của rắn. Vốn là vùng rừng núi bạc ngàn nằm trên nóc nhà thế giới, Hy Mã Lạp Sơn là nơi thâm u bí hiểm với sơn lam chướng khí trùng trùng và vô số loài thú dữ cư ngụ sẵn sàng lấy mạng người để làm thức ăn. Thời đó, thổ dân Dravidian không có đủ vũ khí hùng mạnh để chống cự với các loài mãnh thú và tự bảo vệ mình. Từng người vào rừng săn tìm thức ăn đã không thấy trở về. Độc địa nhất không phải chỉ là những hổ, cọp, gấu, beo nằm lồ lộ chờ mồi bên bờ suối, dưới gốc cây hay trong khe đá, mà ngay bên dưới lớp lá khô mục của đường rừng là những loài rắn nguy hiểm chực chờ bước chân người.
16/10/2010(Xem: 3788)
Trong thiền không có đầu đuôi, khúc chiết, lý luận. Nó đập vỡ lý luận. Đó là thế giới lý tưởng của câu thơ lớp ba mồ côi luận lý. Thế giới của những câu cuối lấc cấc, mẹ gà con vịt. Đừng bắt tôi giải thích; hãy lang thang với tôi trong câu cuối của dăm ba chuyện thiền nổi tiếng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]