Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

28. Thâu nhận ba anh em Ca-diếp

21/03/201103:50(Xem: 6440)
28. Thâu nhận ba anh em Ca-diếp

TRUYỆN PHẬT THÍCH-CA
Đoàn Trung Còn biên soạn, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính

HỒI THỨ NHÌ

28. THÂU NHẬN BA ANH EM CA-DIẾP

Khi đến Ưu-lầu-tần-loa, đức Phật thu phục ba anh em nhà Ca-diếp. Sự việc là như sau.

Vùng Ưu-lầu-tần-loa từ lâu đã thịnh hành giáo phái thờ lửa do ba anh em nhà Ca-diếp cầm đầu. Người anh cả lập một đạo tràng lớn nhất ở Ưu-lầu-tần-loa, nên gọi là Ưu-lầu-tần-loa Ca-diếp, có đến 500 môn đồ theo học. Ông là một bậc trí thức uyên bác, thông thạo cả bốn bộ kinh Vệ-đà, tức là thánh kinh của đạo Bà-la-môn.

Những người theo giáo phái này xem lửa là hiện thân tinh sạch của đấng Phạm-thiên, nên tin rằng qua việc thờ lửa và cầu nguyện họ sẽ được tiếp nhận lên cõi trời, là nơi có đời sống an vui cao nhất. Người thờ lửa để tóc dài và tu khổ hạnh, chống lại sự hưởng thụ dục lạc.

Người em kế của ông lập đạo tràng gần đó, có 300 môn đồ theo học. Người em út cũng lập một đạo tràng khác, có 200 môn đồ theo học. Như vậy, cả ba anh em nhà Ca-diếp hiện có 1.000 môn đồ theo học, thế lực bao trùm khắp một vùng rộng lớn.

Khi đức Phật đến vùng này, ngài nghe tiếng anh em nhà Ca-diếp và liền đến xin gặp mặt ông Ưu-lầu-tần-loa Ca-diếp.

Khi ông này tiếp đức Phật, Phật liền hỏi ông về mục đích và ích lợi của việc thờ lửa. Sau khi nghe ông trình bày, Phật liền dùng thuyết nhân duyên sinh khởi mà chỉ rõ những sai lầm trong niềm tin đó của ông. Sau khi phân tích cho ông hiểu về sự sinh khởi của vạn pháp, đức Phật khẳng định với ông rằng:

“Sự giải thoát chỉ có thể do chính mình đạt đến bằng nỗ lực tu tập đúng hướng, không thể do cầu nguyện ở bất cứ một đấng thiêng liêng nào mà có được. Và sự trong sạch, thanh tịnh chỉ có thể đạt được do siêng tu các việc thiện, tránh xa các việc ác, chứ không thể do nơi tắm rửa ở nước sông thiêng hoặc nhờ đến ngọn lửa.”

Ông Ưu-lầu-tần-loa Ca-diếp vốn là một bậc đại trí thức, nên nghe qua lời Phật ông liền nhận ngay ra được sự đúng đắn, hợp lý. Ông liền đem những chỗ thắc mắc từ lâu ra để hỏi Phật. Đức Phật giải đáp cặn kẻ cho ông hiểu từng vấn đề, không còn chỗ hoài nghi nào nữa.

Khi ấy, ông Ca-diếp nhận ra là mình đang được tiếp chuyện với một đấng giác ngộ hoàn toàn, với trí tuệ siêu phàm mà xưa nay ông chưa từng nghe biết đến. Ông liền vui mừng lễ bái xin được làm đệ tử Phật. Phật hoan hỷ thâu nhận ông.

Ông thỉnh Phật ở lại một đêm, và đề nghị nhường tịnh thất của mình cho Phật nghỉ ngơi. Nhưng đức Phật từ chối, ngài bảo mình có thể ngủ nhờ trong đền thờ thần lửa của ông là được rồi.

Ca-diếp nghe vậy lấy làm hoảng sợ, vì từ lâu trong đền thờ ấy có một con rắn độc rất nguy hiểm, không ai dám vào đó ban đêm cả. Đức Phật chỉ cười khi nghe ông nói về việc đó, và ngài bảo ông cứ yên tâm.

Đêm đó, Phật ngồi thiền ở một góc đền thờ. Quá nửa đêm, ngài thấy con rắn độc rất lớn bò vào đền. Ngài liền vận dụng tâm đại bi để nói với rắn rằng: “Đây không phải là nơi an ổn mà ngươi có thể lui tới. Tốt hơn là ngươi nên đi đến những chỗ vắng người.”

Lạ thay, con rắn liền từ từ lui ra khỏi đền, và từ đó về sau không ai còn gặp rắn nữa.

Qua sự việc ấy, ông Ca-diếp càng thêm kính phục đức Phật. Hôm sau, ông tập hợp 500 đồ chúng lại và tuyên bố từ bỏ việc thờ lửa, và bản thân ông quy y theo Phật, làm một vị sa-môn xuất gia. Cả 500 môn đồ đều noi gương ông, xin xuất gia theo Phật. Phật chấp nhận. Họ cắt tóc ném hết xuống sông, làm đen kịt cả một đoạn sông dài.

Hai người em nghe tin liền dẫn hết môn đồ về chỗ người anh cả. Sau khi ba anh em gặp gỡ trao đổi cùng nhau, họ quyết định cùng xin xuất gia theo Phật. Hết thảy môn đồ cũng đều xin theo, tạo thành một tăng đoàn đông đảo đến ngàn người chỉ trong mấy ngày. Thật là một chuyện xưa nay chưa từng có.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
16/10/2010(Xem: 3782)
Trong đời, tôi đã thấy mặt trăng lần nào chưa? Nhìn trăng, tôi nhìn cả đời. Nhưng thấy trăng, tôi không dám nói chắc. Khi tôi nhìn trăng trước mắt, tôi nghĩ đến trăng nửa khuya loáng thoáng trên tàu lá chuối sau vườn cũ. Tôi nghĩ đến đèn trung thu lúc nhỏ. Tôi nghĩ đến cái chõng tre giữa sân trên đó, ngày xưa, tôi nằm nhìn mây bay. Nhìn trăng, tôi không thấy trăng. Chỉ thấy lá chuối, chõng tre. Thấy cả tôi với trẻ con hàng xóm nô đùa. Có lần tôi trốn tìm với chúng nó, bị lộ, tôi nhảy bừa vào bụi tre, bất ngờ có đứa con gái đã ngồi sẵn trong đó. Tôi sợ hoảng, toan vọt ra thì nó kéo tay tôi lại, ấn vai tôi xuống, cười đồng lõa. Trong loáng thoáng của cây lá, tôi thấy hai cái răng cửa của nó sáng ngời ánh trăng. Bây giờ, nhìn trăng non, tôi thấy cái miệng và hai cái răng. Tựa như hai cái răng của nó phát ánh sáng và in hình miệng nó lên bầu trời.
16/10/2010(Xem: 3038)
Ngày xưa, một nhà quan lang họ Cao có hai người con trai hơn nhau một tuổi và giống nhau như in, đến nỗi người ngoài không phân biệt được ai là anh, ai là em
16/10/2010(Xem: 2856)
Ngày xưa, vào hồi Tây Sơn khởi nghĩa, có một chàng trai người vùng Đồng Nai, có tài cả văn lẫn võ, đã vung gươm hưởng ứng sự bất bình của thiên hạ.
16/10/2010(Xem: 2708)
Ngày xửa... Ngày xưa... Có một cô bé rất giàu lòng yêu thương. Cô yêu bố mẹ mình, chị mình đã đành, cô còn yêu cả bà con quanh xóm...
15/10/2010(Xem: 3101)
Một danh tướng về già muốn tặng thanh kiếm báu của mình cho một tướng quân ở xa. Ông giao trọng trách đó cho một gia nhân, cũng là một tay kiếm xuất chúng. Cẩn thận như vậy, ông vẫn không yên lòng, nghĩ rằng kiếm sĩ này chưa chắc đã đủ chín chắn để giữ kiếm không bị cướp dọc đường. Thanh kiếm không những quý về chất thép mà còn quý vì chuôi kiếm có nạm vàng và ngọc vua ban.
13/10/2010(Xem: 2512)
Có hai vợ chồng một ông già tên là Dã Tràng. Trong vườn họ có một hang rắn. Thường ngày làm cỏ gần đấy, ông già vẫn thấy có một cặp vợ chồng rắn...
13/10/2010(Xem: 4085)
Vào Thứ Sáu, ngày 8 tháng 10 năm 2010, Ủy Ban Giải Nobel Hòa Bình Na Uy đã công bố giải Nobel Hòa Bình năm 2010 được trao cho Lưu Hiểu Ba. Lưu Hiểu Ba, sinh năm 1955 tại thủ phủ Trường Xuân của tỉnh Cát Lâm ở đông bắc Trung Quốc, là nhà tranh đấu bất bạo động cho tự do, dân chủ và nhân quyền tại Trung Quốc. Ông đã từng tham gia phong trào sinh viên đấu tranh trong biến cố Thiên An Môn năm 1989 và sau đó liên tục bị sách nhiễu, quản chế tại gia và tù tội. Ngày 8 tháng 12 năm 2008, ông đã bị bắt vì cùng một số nhà tranh đấu dân chủ và nhân quyền Trung Quốc công bố Hiến Chương 2008 đòi xóa bỏ chế độ cai trị độc đảng để tiến tới một xã hội dân chủ cho Trung Quốc. Hiến Chương 2008 cho đến nay đã có hơn 8,500 người tham gia ký tên. Vì Hiến Chương 2008, Lưu Hiểu Ba đã bị chính quyền cộng sản Trung Quốc kết án 11 năm tù. Hiện ông vẫn còn ngồi tù ở Liễu Ninh, Trung Quốc.
11/10/2010(Xem: 3115)
Không ngờ tôi lại có được duyên lành đi chung với Thầy Trụ Trì Chùa Tâm Giác một đoạn đường khá xa. Tôi vẫn thường hay đến chùa, vãn hay gặp Thầy nhưng lúc nào Thầy cũng „Phật sự đa đoan“ nên tôi có rất ít thì giờ gần gũi và tiếp xúc với Thầy nhiều. Chuyến đi này thật hữu ích cho tôi vô cùng, tôi đã nghe và thấm nhuần được rất nhiều điều về Giáo lý Phật Đà - một niềm tin mà tôi luôn luôn tôn thờ và say mê khi vừa mới lớn cho đến tận bây giờ và cũng nhờ Thầy mà đoạn đường đi về 260 km không còn xa vời vợi nữa.
07/10/2010(Xem: 3246)
Hiện nay, truyền thuyết Lương Sơn Bá-Chúc Anh Đài được lưu truyền dưới nhiều hình thức nghệ thuật khác như kể chuyện, ca dao, truyền kỳ, kịch, khúc nghệ, âm nhạc, v.v
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]