Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hồi Thứ Nhì

21/03/201103:50(Xem: 5822)
Hồi Thứ Nhì

TRUYỆN PHẬT THÍCH-CA
Đoàn Trung Còn biên soạn, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính

HỒI THỨ NHÌ

23. CHƯ THIÊN KHUYẾN THỈNH

Trong ba tuần lễ sau đêm thành đạo. Đức Phật ngồi không lay động. Ngài tiếp tục quán xét hết thảy mọi lẽ nhân duyên trong đời sống và cân nhắc việc truyền bá đạo pháp mà ngài vừa chứng đắc. Ngài nghĩ rằng:

“Ta đã giải thoát rồi. Đạo lý mà ta tìm ra thật là cao siêu, vi diệu. Không một đạo lý nào của người đời có thể đem ra so sánh với đạo của ta được. Ai tin và làm theo giáo pháp mà ta truyền dạy, người ấy chắc chắn sẽ đạt đến sự giải thoát, an lạc.”

Rồi ngài lấy tâm thuần hòa, tĩnh lặng mà quán sát căn cơ của hết thảy chúng sanh. Ngài than rằng:

“Than ôi! Hết thảy chúng sanh cho dù sẵn có trí tuệ sáng suốt đồng như chư Phật, nhưng vì mê muội không tự thấy bản tâm mình, chạy theo những vọng tưởng giả dối, tạo tác hết thảy các nghiệp thiện ác, khiến phải luân chuyển mãi mãi trong sáu nẻo luân hồi, thật đáng thương thay!

“Nhưng nay giáo pháp này của ta rất cao siêu, thâm áo, chúng sanh căn tánh thấp hèn chẳng thể nào tin nhận được. Nay dù ta có nhọc công mà truyền dạy, nhưng họ chẳng đủ sức để tin hiểu thì phỏng có ích gì? Nếu họ lại sanh tâm khinh chê, báng bổ, thì phải chịu quả báo khôn lường.”

Nghĩ như vậy rồi, ngài liền muốn nhập Niết-bàn.

Bấy giờ, Ma vương hiện đến trước mặt Phật và nói rằng:

“Bạch đức Thế Tôn! Căn tánh chúng sanh ở cõi này quả thật là rất ngoan ngạnh khó dạy. Dẫu ngài có nhọc công cũng vô ích mà thôi. Nay ngài đã chứng thành đạo quả, sao ngài chưa nhập Niết-bàn? Đã đến lúc rồi đó vậy.”

Đức Phật lặng thinh không đáp.

Khi ấy, cung điện của chư thiên trên cõi trời đều rúng động.

Đức Đế-thích, vua của chư thiên, liền dùng thần thông quán sát nguyên nhân. Ngài bảo với tất cả chư thiên rằng:

“Đức Thích-ca Mâu-ni vừa thành đạo. Ánh sáng giác ngộ vừa bừng lên ở cõi Ta-bà, rồi sẽ chiếu rạng khắp trong ba cõi. Nhưng nay ngài đang muốn nhập Niết-bàn. Ma vương đã đến thỉnh ngài nhập Niết-bàn. Nếu ngài nhập Niết-bàn, trần thế sẽ lại chìm trong đêm dài u tối, ba cõi không có ai làm đấng đạo sư dẫn dắt.”

Đế-thích nói vậy rồi liền cùng với chư thiên vây quanh, hiện xuống nơi Phật thành đạo. Các vị cung kính lễ bái rồi thưa thỉnh rằng:

“Bạch đức Thế Tôn! Giáo lý mà ngài đã chứng đắc thật là cao siêu, vi diệu. Giáo lý ấy có thể cứu khổ cứu nạn cho hết thảy các hàng trời, người và chúng sanh trong ba cõi. Ai tin và làm theo ngài đều sẽ được an lạc, giải thoát. Vậy xin ngài hãy thương xót chúng sanh mà rộng truyền ra khắp chốn, phá tan sự mê tối của ngàn đời. Xin ngài đừng nhập Niết-bàn vào lúc này.”

Đức Phật lặng thinh không đáp.

Đế-thích lại thưa thỉnh lần nữa rằng:

“Bạch đức Thế Tôn! Xin ngài thương xót hết thảy chúng sanh. Xin ngài đừng nhập Niết-bàn vào lúc này. Cho dù căn cơ của chúng sanh có thấp hèn, nhưng cũng có những kẻ thiện căn đầy đủ, khát ngưỡng Phật pháp. Những kẻ ấy sẽ tiếp nối đạo ngài, sẽ tiếp bước ngài mà rộng truyền chánh pháp. Bạch đức Thế Tôn! Xin ngài đừng nhập Niết-bàn vào lúc này.”

Đức Phật vẫn lặng thinh không đáp.

Đế-thích lại thưa thỉnh lần thứ ba nữa rằng:

“Bạch đức Thế Tôn! Xin ngài hãy vì tất cả chúng sanh mà quay bánh xe pháp. Xin ngài hãy rộng truyền giáo lý tối thượng tối tôn mà ngài vừa chứng đắc. Xin ngài hãy tùy thuận nơi căn cơ thấp hèn của chúng sanh mà tuần tự dẫn dắt để họ được bước dần lên bến bờ giải thoát.”

Khi ấy, đức Phật liền nghĩ rằng:

“Đáng khen thay cho vua cõi trời Đế-thích, đã ba lần cầu thỉnh ta quay bánh xe pháp, làm lợi ích cho hết thảy chúng sanh. Nay ta nhận thấy chúng sanh có những kẻ ngu mê si dại, nhưng cũng có những người trí tuệ lanh lợi. Nếu ta dùng phương tiện giảng giải cho họ nghe theo thứ lớp, dùng những điều từ dễ đến khó, từ thấp lên cao mà tuần tự dẫn dắt, thì giáo pháp của ta cũng có thể rộng truyền ra mà cứu độ chúng sanh được vậy.”

Ngài liền yên lặng mà nhận lời khuyến thỉnh của chư thiên.

Khi ấy, Đế-thích và chư thiên vui mừng khôn xiết, liền rãi hoa trời xuống chỗ ngài để cúng dường, lại có chư thiên trỗi nhạc trời và ca múa, tán thán Phật.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
16/10/2010(Xem: 3840)
Trong đời, tôi đã thấy mặt trăng lần nào chưa? Nhìn trăng, tôi nhìn cả đời. Nhưng thấy trăng, tôi không dám nói chắc. Khi tôi nhìn trăng trước mắt, tôi nghĩ đến trăng nửa khuya loáng thoáng trên tàu lá chuối sau vườn cũ. Tôi nghĩ đến đèn trung thu lúc nhỏ. Tôi nghĩ đến cái chõng tre giữa sân trên đó, ngày xưa, tôi nằm nhìn mây bay. Nhìn trăng, tôi không thấy trăng. Chỉ thấy lá chuối, chõng tre. Thấy cả tôi với trẻ con hàng xóm nô đùa. Có lần tôi trốn tìm với chúng nó, bị lộ, tôi nhảy bừa vào bụi tre, bất ngờ có đứa con gái đã ngồi sẵn trong đó. Tôi sợ hoảng, toan vọt ra thì nó kéo tay tôi lại, ấn vai tôi xuống, cười đồng lõa. Trong loáng thoáng của cây lá, tôi thấy hai cái răng cửa của nó sáng ngời ánh trăng. Bây giờ, nhìn trăng non, tôi thấy cái miệng và hai cái răng. Tựa như hai cái răng của nó phát ánh sáng và in hình miệng nó lên bầu trời.
16/10/2010(Xem: 3120)
Ngày xưa, một nhà quan lang họ Cao có hai người con trai hơn nhau một tuổi và giống nhau như in, đến nỗi người ngoài không phân biệt được ai là anh, ai là em
16/10/2010(Xem: 2939)
Ngày xưa, vào hồi Tây Sơn khởi nghĩa, có một chàng trai người vùng Đồng Nai, có tài cả văn lẫn võ, đã vung gươm hưởng ứng sự bất bình của thiên hạ.
16/10/2010(Xem: 2773)
Ngày xửa... Ngày xưa... Có một cô bé rất giàu lòng yêu thương. Cô yêu bố mẹ mình, chị mình đã đành, cô còn yêu cả bà con quanh xóm...
15/10/2010(Xem: 3210)
Một danh tướng về già muốn tặng thanh kiếm báu của mình cho một tướng quân ở xa. Ông giao trọng trách đó cho một gia nhân, cũng là một tay kiếm xuất chúng. Cẩn thận như vậy, ông vẫn không yên lòng, nghĩ rằng kiếm sĩ này chưa chắc đã đủ chín chắn để giữ kiếm không bị cướp dọc đường. Thanh kiếm không những quý về chất thép mà còn quý vì chuôi kiếm có nạm vàng và ngọc vua ban.
13/10/2010(Xem: 2609)
Có hai vợ chồng một ông già tên là Dã Tràng. Trong vườn họ có một hang rắn. Thường ngày làm cỏ gần đấy, ông già vẫn thấy có một cặp vợ chồng rắn...
13/10/2010(Xem: 4166)
Vào Thứ Sáu, ngày 8 tháng 10 năm 2010, Ủy Ban Giải Nobel Hòa Bình Na Uy đã công bố giải Nobel Hòa Bình năm 2010 được trao cho Lưu Hiểu Ba. Lưu Hiểu Ba, sinh năm 1955 tại thủ phủ Trường Xuân của tỉnh Cát Lâm ở đông bắc Trung Quốc, là nhà tranh đấu bất bạo động cho tự do, dân chủ và nhân quyền tại Trung Quốc. Ông đã từng tham gia phong trào sinh viên đấu tranh trong biến cố Thiên An Môn năm 1989 và sau đó liên tục bị sách nhiễu, quản chế tại gia và tù tội. Ngày 8 tháng 12 năm 2008, ông đã bị bắt vì cùng một số nhà tranh đấu dân chủ và nhân quyền Trung Quốc công bố Hiến Chương 2008 đòi xóa bỏ chế độ cai trị độc đảng để tiến tới một xã hội dân chủ cho Trung Quốc. Hiến Chương 2008 cho đến nay đã có hơn 8,500 người tham gia ký tên. Vì Hiến Chương 2008, Lưu Hiểu Ba đã bị chính quyền cộng sản Trung Quốc kết án 11 năm tù. Hiện ông vẫn còn ngồi tù ở Liễu Ninh, Trung Quốc.
11/10/2010(Xem: 3190)
Không ngờ tôi lại có được duyên lành đi chung với Thầy Trụ Trì Chùa Tâm Giác một đoạn đường khá xa. Tôi vẫn thường hay đến chùa, vãn hay gặp Thầy nhưng lúc nào Thầy cũng „Phật sự đa đoan“ nên tôi có rất ít thì giờ gần gũi và tiếp xúc với Thầy nhiều. Chuyến đi này thật hữu ích cho tôi vô cùng, tôi đã nghe và thấm nhuần được rất nhiều điều về Giáo lý Phật Đà - một niềm tin mà tôi luôn luôn tôn thờ và say mê khi vừa mới lớn cho đến tận bây giờ và cũng nhờ Thầy mà đoạn đường đi về 260 km không còn xa vời vợi nữa.
07/10/2010(Xem: 3321)
Hiện nay, truyền thuyết Lương Sơn Bá-Chúc Anh Đài được lưu truyền dưới nhiều hình thức nghệ thuật khác như kể chuyện, ca dao, truyền kỳ, kịch, khúc nghệ, âm nhạc, v.v
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]