Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

84. Tỳ-kheo Tam Tạng

04/03/201103:31(Xem: 6103)
84. Tỳ-kheo Tam Tạng

MỘT TRĂM BÀI KINH PHẬT
Đoàn Trung Còn - Nguyễn Minh Tiến dịch và chú giải

PHẨM THỨ CHÍN: CÁC VỊ THANH VĂN

TỲ-KHEO TAM TẠNG

Lúc ấy, Phật ở gần thành Xá-vệ, trong vườn Kỳ thọ Cấp Cô Độc. Vua Ba-tư-nặc bấy giờ có một vị phu nhân mang thai, sinh được một người con trai. Đứa bé mới sinh ra ấy dung nhan xinh đẹp, lại có một tấm áo cà-sa bao quanh thân, vừa sinh ra đã biết nói ngay, lên tiếng hỏi vua cha rằng: “Tâu phụ vương, đức Như Lai Thế Tôn nay còn tại thế chăng?” Rồi lại hỏi thăm đến hết thảy các vị đại đệ tử như Xá-lỵ-phất, Mục-kiền-liên, Ca-diếp, A-nan... Vua liền đáp rằng: “Tất cả ác vị đều an ổn.”

Đứa bé liền nói: “Xin phụ vương vì con mà thỉnh Phật với chư tăng vào cung cúng dường.”

Vua nhận lời, thiết lễ cúng dường rất lớn, thỉnh Phật và chư tăng đến thọ nhận. Khi Phật đến nơi, nhìn thấy vị vương tử mới sinh ấy liền hỏi rằng: “Ngươi có nhớ chăng, vào thời Phật Ca-diếp tại thế ngươi chính là tỳ-kheo Tam Tạng?” Vương tử đáp: “Quả thật vậy.” Lại hỏi: “Ngươi ở trong bào thai được yên ổn chăng?” Đáp rằng: “Nhờ ân đức Phật, được toàn tính mạng.”

Khi ấy, phu nhân nhìn thấy con mình đối đáp với Phật thì lấy làm lạ lùng, không dấu được sự ngạc nhiên, liền thưa hỏi rằng: “Bạch Thế Tôn! Đứa trẻ này trước đây đã gieo những nhân lành gì mà nay sinh ra đã biết nói ngay, có thể cùng Phật đối đáp? Xin đức Thế Tôn từ bi giảng giải cho được biết.”

Khi ấy, đức Thế Tôn liền đọc kệ rằng:

Đã tạo các nghiệp thiện,
Trăm kiếp đều chẳng mất.
Do thiện nghiệp, nhân duyên,
Nên được quả như thế.

Vua Ba-tư-nặc và phu nhân nghe Phật nói kệ như vậy, liền thưa hỏi rằng: “Không biết nhân duyên thời quá khứ như thế nào? Xin đức Thế Tôn giảng giải cho biết.”

Phật nói: “Các ngươi hãy chú tâm lắng nghe, ta sẽ vì các ngươi mà phân biệt giảng nói. Vào giữa Hiền kiếp này, xứ Ba-la-nại có vị Phật ra đời hiệu là Ca-diếp, cùng với chư tỳ-kheo đi giáo hóa rất nhiều nơi, đến nước của vua Ca-sí.

“Bấy giờ, thái tử con vua tên là Thiện Sanh, nhìn thấy Phật rồi lòng sinh ra tin phục, kính ngưỡng, liền tâu lên vua cha xin được xuất gia học đạo. Vua nói: “Ta chỉ có duy nhất một mình con, sẽ là người kế vị ta mà chăm lo cho dân chúng, thật không thể cho phép con xuất gia nhập đạo.”

“Thái tử nghe nói vậy, trong lòng sầu ưu, khổ não, liền bỏ ăn đến sáu ngày liền. Quần thần thấy vậy đều hoảng sợ, đến tâu với vua rằng: “Thái tử tuyệt thức đã sáu ngày rồi, tánh mạng nguy kịch. Xin đại vương thuận theo ý thái tử, may ra sau này còn được nhìn mặt nhau.”

Vua nghe lời tâu như vậy liền thuận theo, đến chỗ thái tử nói rằng: “Ta thuận cho con xuất gia, nhưng phải có lời thề trước là sẽ đọc tụng thông thạo ba tạng kinh điển. Bằng không thì về sau đừng về gặp mặt ta nữa.” Thái tử vui mừng, liền thuận theo ý vua mà lập lời thệ nguyện.

Xuất gia chẳng bao lâu, do chuyên cần học tập, liền đọc tụng thông thạo cả ba tạng kinh điển, trở về thăm vua cha.

Vua liền hỏi: “Ta đã có lời nói trước. Nay người đã đọc tụng thông thạo ba tạng kinh điển hay chưa mà vội trở về đây?” Tỳ-kheo đáp: “Nay đã làm xong việc ấy.” Vua nghe như vậy liền vui mừng khôn xiết, nói với con rằng: “Nếu quả thật vậy, từ nay tất cả kho tàng trân bảo của ta, con có thể tùy ý sử dụng hết thảy, ta thật không tiếc giữ.”

Vị tỳ-kheo ấy nghe lời vua thì mừng lắm, liền lập tức xuất của kho ra tổ chức lễ cúng dường, thỉnh Phật và chư tăng cùng đến thọ nhận. Cúng dường xong, lại phụng cúng cho tất cả tỳ-kheo tăng mỗi người đều có đủ ba tấm y và sáu món cần dùng. Nhờ công đức ấy, người không còn đọa vào các nẻo ác, khi sinh ra trong cõi trời người, đều có áo cà-sa bao quanh thân, lại được gặp Phật mà xuất gia, đắc đạo.

Các vị tỳ-kheo nghe Phật thuyết nhân duyên này xong thảy đều vui mừng tin nhận.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
16/09/2011(Xem: 11395)
Tôi cảm động, vì sống trong đạo giải thoát tôi đã tiếp nhận được một thứ tình thiêng liêng, trong sáng; một thứ tình êm nhẹ thanh thoát đượm ngát hương vị lý tưởng...
12/09/2011(Xem: 3620)
Hồ Biểu Chánh (1884–1958), tên thật là Hồ Văn Trung, tự Biểu Chánh, hiệu Thứ Tiên; là một nhà văn tiên phong của miền Nam Việt Nam ở đầu thế kỷ 20. Ông sinh năm 1885 (trong giấy khai sinh ghi ngày 1 tháng 10 năm 1885) tại làng Bình Thành, tỉnh Gò Công (nay thuộc huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang). Ông xuất thân trong một gia đình nông dân, thuở nhỏ học chữ Nho, sau đó chuyển qua học quốc ngữ, rồi vào trường trung học ở Mỹ Tho và Sài Gòn. Năm 1905, sau khi đậu Thành chung, ông thi vào ngạch ký lục của Soái phủ Nam Kỳ; làm ký lục, thông ngôn, thăng dần đến đốc phủ sứ (1936), từng giữ chức chủ quận (quận trưởng) ở nhiều nơi. Ông vốn có tiếng thanh liêm, yêu dân, thương người nghèo khổ.
11/09/2011(Xem: 12421)
Tôi thức dậy trong một sự yên tĩnh như thế ấy ở Pomona. Tiếng chim hót vang rừng những không thể nói là tiếng ồn. Nó lại càng làm cho sự yên lặng thêm sâu hơn về bề sâu là khác.
06/09/2011(Xem: 10463)
Đóa sen, nếu nhìn dưới kính hiển vi và suy luận theo thiên văn học, là nền tảng của vũ trụ và cũng là một phương tiện giúp ta khám phá vũ trụ.
05/09/2011(Xem: 7456)
Điều tôi muốn là con đường đưa đến sự chấm dứt mọi đau khổ, một con đường đã được khám phá hơn hai ngàn năm trăm năm nay nhưng mãi đến thời gian gần đây tôi mới ý thức được nó.
05/09/2011(Xem: 6202)
Tinh thần Hoa Nghiêm từng dạy một câu rất thâm sâu nhưng chỉ cần lắng tâm là có thể nắm bắt được. Đó là: “Khoảnh khắc chứa đựng thiên thu”. Mỗi phút giây là mỗi thách thức của ta qua sự hiện hữu ở cõi Ta Bà này. Ta phải nghĩ thế nào để có chánh niệm, thở thế nào để có tỉnh thức, sống thế nào để có an lạc. Bước được một bước chân vào Tịnh Độ thì cần gì trăm năm?! Khoảnh khắc đó chính là thiên thu đấy.... Đức Phật là tiêu biểu tuyệt hảo về Từ, Bi, Hỷ Xả. Đó là Tứ Vô Lượng Tâm toàn bích, không một tỳ vết, thể hiện qua suốt cuộc đời thị hiện ta-bà của Ngài.
01/09/2011(Xem: 2742)
Lữ khách một mình trên lối mòn vào thung lũng An-nhiên. Núi rừng trùng điệp miền Bản-ngã-sơn huyền bí, nhàn nhạt ánh mặt trởi trên bóng lá thâm u. Mơ hồ đâu đó phảng phất khói lam ai đốt lau làm rẫy dưới sườn non.
31/08/2011(Xem: 12962)
Cám ơn nàng. Nàng đã đem lại cho ta SỰ THẬT. Nàng đã cho ta thấy cái phi lý của tưởng tượng. Ta sẽ không còn ôm giữ một hình ảnh nào, vì Phật đã dạy: Pháp còn phải bỏ huống chi phi pháp.
29/08/2011(Xem: 6948)
Cha cô vẫn nói, cô giống mẹ từ chân tơ, kẽ tóc, vừa xinh đẹp, vừa tài hoa. Cha thương nhớ mẹ bao nhiêu là yêu quí cô bấy nhiêu.
29/08/2011(Xem: 14072)
Bàng bạc khắp trong tam tạng kinh điển, hằng hà sa số mẩu truyện, đức Phật thường nhắc đến sự liên hệ giữa Ngài và các đệ tử, giữa chúng sanh và Ngài trong những kiếp quá khứ.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]