Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

58. Phật độ trâu nước hung dữ

04/03/201103:31(Xem: 6361)
58. Phật độ trâu nước hung dữ

MỘT TRĂM BÀI KINH PHẬT
Đoàn Trung Còn - Nguyễn Minh Tiến dịch và chú giải

PHẨM THỨ SÁU: CHƯ THIÊN CÚNG DƯỜNG

PHẬT ĐỘ TRÂU NƯỚC HUNG DỮ

Lúc ấy, Phật cùng với chư tỳ-kheo đi giáo hóa, ngang qua nước Kiều-tát-la, đến một vùng đầm lầy. Ở đó có một bầy 500 con trâu, trong đó có một con cực kỳ hung dữ, lại có 500 người chăn trâu.

Khi thấy Phật từ xa đi lại, những người chăn trâu liền la lớn lên rằng: “Xin đức Thế Tôn đừng qua lối này. Trong bầy trâu ấy có một con cực kỳ hung dữ, thường hại mạng người, không thể đi qua được.”

Phật bảo những người chăn trâu rằng: “Các ngươi chớ lo lắng. Con trâu dữ ấy nếu muốn làm hại, ta có thể tự lo liệu được.”

Liền đó, trâu dữ từ xa phóng tới, đuôi cong lên trời, hai sừng cúi xuống, nhằm ngay mình Phật mà lao đến. Khi ấy, Phật liền đưa năm ngón tay ra, hóa hiện năm con sư tử oai vệ hầu quanh Phật, lại bốn phía hiện ra những hầm lửa lớn, lửa cháy dậy trời. Con trâu dữ kinh hoàng khiếp sợ, quay vòng không còn biết đường nào trốn chạy nữa.

Bỗng nó thấy ngay trước mặt Phật có một chỗ trống có thể đến tránh né được, vội chạy đến đó, liền thấy thân thể mát mẻ, yên ổn, không còn lo sợ hoảng hốt nữa. Trâu vui mừng quỳ xuống, thè lưỡi liếm trên bàn chân Phật. Rồi lại ngẩng đầu lên mà nhìn Phật, trong lòng vui mừng không kể xiết.

Phật biết trâu dữ đã được điều phục, liền đọc kệ cho trâu nghe rằng:

Tâm hung khởi ác ý,
Muốn đến đây hại ta.
Lòng thành mong đắc thắng,
Quay lại liếm chân ta.

Khi con trâu dữ ấy nghe Phật đọc kệ rồi, trong lòng sinh ra xấu hổ, bỗng nhiên tâm địa trở nên sáng suốt, nghiệp chướng trừ diệt, chợt nhớ lại kiếp trước khi làm thân người đã tạo rất nhiều ác nghiệp. Nhớ lại như vậy rồi trong lòng buồn bã, hối hận và xấu hổ, liền bỏ ăn suốt mấy ngày liền.

Trâu nhịn đói mà chết, ác nghiệp đã dứt, nhờ phước lành gặp Phật nên liền được sinh lên cõi trời Đao-lỵ. Vừa sinh ra đã cao lớn như đứa trẻ được tám tuổi, trong tâm tự suy nghĩ rằng: “Không biết trước đây ta tạo phước đức gì mà được sinh lên cõi trời này?” Liền tự quán sát, nhớ lại tiền thân là con trâu hung dữ, nhờ được Phật hóa độ cho mà được sinh lên cõi trời, liền hiện xuống chỗ Phật, mang theo những hương hoa, trân bảo từ cõi trời đến cúng dường Phật.

Lễ bái cúng dường xong, liền ngồi sang một bên nghe pháp. Phật thuyết pháp Tứ diệu đế cho nghe rồi, tâm ý liền khai mở, đắc quả Tu-đà-hoàn, liền lễ Phật rồi quay về cõi trời.

Sáng hôm sau, những người chăn trâu liền đến thưa hỏi Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Đêm qua có hào quang chiếu sáng ở chỗ Phật, chẳng hay đó là các vị Thích phạm, tứ thiên vương, hay hai mươi tám bộ quỷ thần đến nghe pháp?”

Phật nói: “Chẳng phải Thích phạm, thiên thần, tứ thiên vương đến nghe pháp. Ấy là con trâu dữ hôm trước, được ta độ thoát sinh lên cõi trời, nay đến cúng dường ta. Do đó mà có ánh hào quang ấy.”

Bấy giờ, những người chăn trâu nói với nhau rằng: “Đến như con trâu hung dữ ấy mà gặp Phật rồi còn được sinh lên cõi trời, huống chi như chúng ta đây, đã được làm người lẽ nào không biết cố gắng mà tu thiện?”

Nói như vậy rồi, liền cùng nhau sắm sửa các món ăn thức uống, lễ vật, hương đèn, thỉnh Phật với chư tỳ-kheo đến cúng dường. Lễ cúng dường xong, nghe Phật thuyết pháp, tâm ý được khai mở, mỗi người đều có chỗ chứng đắc, liền cầu Phật xin được xuất gia nhập đạo.

Phật liền nói với những người chăn trâu ấy rằng: “Lành thay đó, tỳ-kheo!” Tức thì râu tóc đều tự nhiên rụng mất, áo cà-sa hiện nơi thân, thành những vị sa-môn oai nghi đầy đủ. Sau đó chuyên cần tu tập nên chẳng bao lâu đều được đắc quả A-La-hán, có đủ ba trí sáng, sáu phép thần thông, tám môn giải thoát, trong cõi trời người thảy đều kính ngưỡng.

Khi ấy, chư tỳ-kheo thấy việc như vậy liền thưa hỏi Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Con trâu và năm trăm người chăn trâu ấy, đã tạo nghiệp lành dữ như thế nào mà nay thọ những quả báo sai khác nhau như vậy?”

Phật bảo chư tỳ-kheo: “Các ngươi muốn hiểu nhân duyên tác nghiệp của con trâu và những người chăn trâu ấy, hãy nghe bài kệ này:

Đã tạo nghiệp thiện, ác,
Trăm kiếp đều chẳng mất.
Đều do nghiệp, nhân duyên,
Nên chịu quả như thế.

Chư tỳ-kheo lại thưa hỏi rằng: “Chẳng biết nhân duyên đời quá khứ như thế nào, xin Như Lai từ bi giảng giải cho biết.”

Phật bảo chư tỳ-kheo: “Các ngươi hãy chú tâm lắng nghe, ta sẽ vì các ngươi mà phân biệt giảng nói. Vào giữa Hiền kiếp này, xứ Ba-la-nại có vị Phật ra đời hiệu là Ca-diếp. Trong chúng hội của ngài có một vị tỳ-kheo tinh thông cả kinh, luật và luận. Vị tỳ-kheo này cùng với 500 người đệ tử đi hành hóa ở phương xa. Trong lúc luận đàm, nói pháp, có những đệ tử cật vấn tỳ-kheo ấy mấy chỗ không nói được. Vị ấy liền sinh tâm sân nhuế, dùng lời thô ác mà mắng rằng: ‘Các ngươi chẳng có chút hiểu biết gì, lại theo mà vấn nạn ta, có khác nào con trâu dữ chỉ biết gặp người là húc?’

“Bấy giờ 500 vị đệ tử nghe lời ấy rồi đều giận dỗi, không thèm cãi lại, nhận là đúng vậy không sai. Nói rồi liền bỏ thầy tỳ-kheo ấy mà đi, chẳng theo học nữa.

“Do nhân duyên ấy, đã năm trăm kiếp rồi đều phải sinh làm thân trâu dữ, lại do nghiệp lực mà luôn cùng sinh ra một nơi với những người chăn trâu kia, cho đến ngày nay gặp ta mới được độ thoát.”

Phật bảo chư tỳ-kheo: “Vị tỳ-kheo ác khẩu ngày ấy, chính là con trâu hung dữ nhất trong bầy. Năm trăm đệ tử, nay là năm trăm người chăn trâu đó.”

Phật thuyết nhân duyên nghiệp báo của con trâu dữ và những người chăn trâu rồi, chư tỳ-kheo trong chúng hội đều tự biết phòng hộ ba nghiệp thân, miệng và ý, lánh sợ đường sinh tử, có người đắc quả Tu-đà-hoàn, có người đắc quả Tư-đà-hàm, có người đắc quả A-na-hàm, có người đắc quả A-La-hán, lại có nhiều người phát tâm cầu quả Phật Bích-chi, cũng có người phát tâm cầu quả vô thượng Bồ-đề.

Các vị tỳ-kheo nghe Phật thuyết nhân duyên này xong thảy đều vui mừng tin nhận.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
29/03/2013(Xem: 4047)
Khi tơi đang dịch “Nhân Kiếp và Tai Kiếp” (Human Life And Problems, do hịa thượng tiến sĩ K. Sri Dhammananda) vào giữa tháng 09/2001 tại Toronto thì bất ngờ được biết thầy Thích Tâm Quang bên Mỹ đã dịch xong với tựa đề là “Các Vấn Đề Của Xã Hội Hơm Nay” (web www.budsas.org)
29/03/2013(Xem: 10791)
Truyện “Quan Âm Thị Kính” không rõ xuất hiện từ thời nào và do ai sáng tác ra. Thoạt tiên truyện là một khúc hát chèo gồm nhiều đoạn, với ngôn từ rất bình dị và tự nhiên, rõ ràng là một khúc hát của dân quê, của đại chúng. Về sau mới có truyện thơ “Quan Âm Thị Kính” xuất hiện, được viết bằng thể thơ “lục bát”, mang nhiều ý nghĩa thâm thúy của cả đạo Nho lẫn đạo Phật. Người ta phỏng đoán rằng tác giả chắc phải là một người có học thức.
29/03/2013(Xem: 17193)
Trăm năm trong cõi người ta, Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau. Trải qua một cuộc bể dâu, Những điều trông thấy mà đau đớn lòng. Lạ gì bỉ sắc tư phong, Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen. Cảo thơm lần giở trước đèn, Phong tình cổ lục còn truyền sử xanh.
29/03/2013(Xem: 9279)
Chuyến hành hương Thái Lan và Nhật Bản bắt đầu từ ngày 22 tháng 10 đến mùng năm tháng 11 năm 2012, vào một sáng mùa thu với nắng vàng ươm và se se gió lạnh. Có ai biết con số ghi tên tham dự chuyến hành hương Nhật Bản này lên đến bao nhiêu không? Trước giờ khóa sổ vào đầu tháng 10 là hơn một trăm vị, sau rút lui từ từ để dừng lại con số 85 với 14 quốc gia trên thế giới. Một con số đáng ngại trong lịch sử đi hành hương của quý Thầy.
20/03/2013(Xem: 3327)
Tác giả sinh năm 1937, 63 tuổi, hiện cư ngụ tại Worcester, Massachusetts. Công việc: Technician hãng điện tử ở Mass. Sau đây là bút ký về California lãnh Giải Thưởng do ông Luận viết. Bài đã phổ biến trong sách VVNM 2001, nhưng “mất tích” trên Việt Báo Online. Xin mời cùng đọc lại. Hình trên, từ trái: Thượng Nghị Sĩ California, Ông Joe Dunn và các viên chức dân cử khai mạc cuộc họp mặt. Phía trái là nữ nghệ sĩ Kiều Chinh. Phía mặt là cô Leyna Nguyen của truyền hình KCAL9.
19/03/2013(Xem: 10454)
Tập truyện “ Làng Cũ - Người Xưa” của Tiền Vĩnh Lạc (Australia) .Sách dầy 216 trang, bìa cứng 4 màu. Bìa trước cảnh nhóm chợ chồm hỗm ở làng quê tỉnh Trà Vinh. Bìa sau hình xe thổ mộ, ngưa kéo, tác giả gọi là “xe kiếng”? Nội dung gồm nhiều truyện ngắn, hồi ký, tài liệu quý giá...cùng nhiều kinh nghiệm sống viết ra ý chừng muốn khuyên răn con cháu, sách đọc thú vị và cần thiết để làm tài liệu nghiên cứu. Sách không bán, in để tặng . Ai cần xin gọi 618-8932- 3912
10/03/2013(Xem: 3171)
Nước Xá Vệ có cô gái nghèo tên Nan Đà, thân thế cô độc thân, sống bằng nghề ăn xin. Bấy giờ, cô thấy các vị vua chúa, quan đại thần, trưởng giả cúng dường Phật và chư Tăng, cô tự nghĩ: “Ta mắc tội báo gì mà sinh vào nhà bần tiện như thế này nên không thể cúng dường đấng phước điền?”. Cô tự hối trách lấy mình.
04/03/2013(Xem: 5691)
Theo lời Hòa Thượng trưởng lão Huyền Tôn kể rằng, những ngày Hòa Thượng còn ở quê nhà, nơi Tổ đình Thiên Ấn – miền Trung, có một chú sa di tên Diệu Mãn. Thường nhật Chú chỉ làm công việc quét chùa. Chú người hiền lành, ít nói, tánh tình ngồ ngộ. Đặc biệt trong chúng, ai nhờ việc gì đều hoan hỷ làm ngay. Cũng chính vì vậy, chú thường bị quí sư huynh đệ la rầy, sao đang làm việc này lại bỏ đi làm việc kia… Tuy vậy, nhưng lúc nào chú cũng hoan hỷ, không ai thấy chú câu chấp việc gì bao giờ.
20/02/2013(Xem: 16740)
Những Câu Chuyện Linh Ứng về Ngài Địa Tạng Vương Bồ Tát (trọn bộ 03 tập) do HT Thích Như Điển dịch Việt: Năm 2007 khi chúng tôi đang nhập thất tại Úc Châu thì có một Phật Tử tên là Huỳnh Hiệp từ Hoa Kỳ có liên lạc qua bằng E-mail cho Thầy Hạnh Tấn và nhờ tôi phiên dịch tác phẩm "Những mẩu chuyện linh ứng của Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát tại Fuchù - Nhật Bản“ từ tiếng Nhật sang tiếng Việt. Tôi bảo cứ gởi một số chuyện tiêu biểu sang Úc, tôi dịch thử. Nếu đồng ý với cách dịch ấy thì tôi sẽ tiếp tục. Sau một tuần lễ, tôi gởi trở lại 3 chuyện đầu đã dịch của quyển một cho Phật Tử nầy và anh ta rất hoan hỷ và nhờ tôi dịch tiếp cho đến hết quyển sách. Tôi trả lời rằng: "Tôi rất sẵn sàng; nhưng tôi rất ít thì giờ; khi nào xong tôi chưa biết; nhưng tôi sẽ cố gắng. Đồng thời việc đánh máy sẽ giao cho các anh chị em thực hiện". Cầm quyển sách trên tay độ 400 trang A4 thấy cũng hơi nhiều; nhưng thôi, cứ cố gắng vậy. Ông bà mình thường nói: „Kiến tha lâu đầy tổ“ quả câu nầy chẳng sai chút nào.
01/02/2013(Xem: 8645)
Tuổi Hồng Con Gái là tác phẩm đầu đời của tôi được viết vào năm 1980 cùng thời gian với tấm ảnh ngoài bìa sách. Tuy lúc đó sống ngay trên quê hương Việt Nam với dân số đông đảo mấy chục triệu người nhưng xung quanh tôi, vì hoàn cảnh hết sức đặc biệt, tôi không có lấy một người bạn, một người thân để tâm tình những lúc vui, buồn trong cuộc sống.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]