Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

11. Những người thuyền chài

04/03/201103:31(Xem: 6264)
11. Những người thuyền chài

MỘT TRĂM BÀI KINH PHẬT
Đoàn Trung Còn - Nguyễn Minh Tiến dịch và chú giải

PHẨM THỨ HAI: CÚNG DƯỜNG ĐƯỢC THỌ BÁO

NHỮNG NGƯỜI THUYỀN CHÀI

Lúc ấy, Phật ở gần thành Xá-vệ. Về phía bên kia sông Y-la-bạt, có một làng thuyền chài. Bấy giờ, Phật muốn qua sông mà hóa độ cho những người thuyền chài ấy. Khi những người ở làng chài thấy Phật đi đến chỗ bờ sông thì tự nhiên sinh lòng hoan hỷ, liền cùng nhau chèo thuyền sang, đối trước Phật lễ bái mà thưa thỉnh rằng: “Bạch Thế Tôn! Xin ngài rạng sáng ngày mai đến, chúng con sẽ đưa ngài sang sông.” Phật liền nhận lời.

Những người thuyền chài lập tức sửa soạn, trang hoàng thuyền bè, dọn sửa đường đi, cho đến nhặt sạch đá sỏi, những đồ ô uế. Rồi họ che lọng, treo cờ xí, cắm hoa vào bình, và chuẩn bị các món ăn tinh khiết, ngon quý. Chuẩn bị xong mọi việc, họ mang thuyền đến nơi bờ sông mà đợi Phật với chư tỳ-kheo tăng.

Đúng giờ đã hẹn, đức Thế Tôn với chư tỳ-kheo tăng cùng đi chỗ bờ sông, lên thuyền đã đợi sẵn đó mà qua sông, đến làng của những người thuyền chài. Tới nơi, Phật và chư tỳ-kheo đều được thỉnh lên những chỗ ngồi trang nghiêm đã dọn sẵn. Khi mọi người đều đã yên chỗ, những người thuyền chài tự tay sửa soạn, dâng cúng đủ các món ăn ngon quý, tinh khiết.

Lễ cúng dường xong, tất cả đều đến trước Phật lễ bái và khao khát xin được nghe pháp. Đức Thế Tôn lúc ấy liền vì bọn họ mà thuyết pháp Tứ diệu đế. Nghe Phật thuyết pháp xong, mọi người đều thấy tâm ý khai mở, nhiều người được đắc quả Tu-đà-hoàn, có người chứng quả Tư-đà-hàm, có người chứng quả A-na-hàm, có người chứng quả A-La-hán. Lại có người ngay khi đó phát tâm vô thượng Bồ-đề, nguyện được quả vị Phật.

Lúc bấy giờ, chư tỳ-kheo thấy việc Phật được cung kính cúng dường và đưa rước sang sông như thế, liền thưa hỏi rằng: “Chẳng hay đức Thế Tôn đã từng tạo những nhân duyên gì mà nay hưởng sự tự nhiên cúng dường cung kính như vậy?”

Phật bảo chư tỳ-kheo rằng: “Các ngươi hãy lắng nghe, ta sẽ vì các ngươi mà phân biệt nói rõ. Về thuở quá khứ cách đây vô số kiếp, nước Ba-la-nại có Phật ra đời hiệu là Tỳ-diêm-bà, cùng chư tỳ-kheo đi khắp các nước mà giáo hóa chúng sanh. Khi đến một bờ sông, có những người khách buôn vận chuyển hàng hóa sang sông, vừa lúc ấy cũng vừa đến. Những người này vừa thấy Phật với sáu mươi hai ngàn vị A-La-hán cùng đi thì sanh lòng tin phục, kính ngưỡng, liền thưa hỏi rằng: ‘Bạch Thế Tôn, có phải ngài đang muốn sang sông chăng?’ Phật nói: ‘Đúng vậy.’ Những người khách buôn liền sửa soạn các món ăn ngon quý, tinh khiết mà cúng dường Phật với chư tỳ-kheo tăng, lại thưa thỉnh rằng: ‘Kính mong Phật và chư tỳ-kheo tăng nhận cho chúng con đưa thuyền sang sông, kẻo e có bọn giặc cướp không biết mà làm hại đến các ngài.’ Phật liền nhận lời sang sông, rồi nhân đó mới vì những người khách buôn mà thuyết pháp, khiến hết thảy đều được sanh lòng hoan hỷ, phát tâm Bồ-đề. Khi ấy, đức Phật Tỳ-diêm-bà liền thọ ký cho vị chủ đoàn khách buôn rằng: ‘Ngươi về sau sẽ thành Phật hiệu là Thích-ca Mâu-ni.’”

Đức Thế Tôn lại nói: “Này chư tỳ-kheo ! Thuở ấy, người chủ đoàn khách buôn chính là ta ngày nay đây. Ta đưa đức Phật Tỳ-diêm-bà với sáu mươi hai ngàn vị A-La-hán sang sông, cúng dường các ngài một bữa ăn đủ các món quý lạ, tinh khiết, và nhân nơi Phật ấy mà phát tâm Bồ-đề, nguyện thành quả Phật. Bởi nhân duyên ấy, nên trải qua trong nhiều kiếp lưu chuyển, ta không bao giờ đọa vào các đường ác, và cho đến nay được thành quả Phật. Cũng vì thế mà khắp trong cõi trời người, ai ai cũng muốn đến cúng dường ta.”

Các vị tỳ-kheo nghe Phật thuyết nhân duyên này xong thảy đều vui mừng tin nhận.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
29/03/2013(Xem: 3891)
Khi tơi đang dịch “Nhân Kiếp và Tai Kiếp” (Human Life And Problems, do hịa thượng tiến sĩ K. Sri Dhammananda) vào giữa tháng 09/2001 tại Toronto thì bất ngờ được biết thầy Thích Tâm Quang bên Mỹ đã dịch xong với tựa đề là “Các Vấn Đề Của Xã Hội Hơm Nay” (web www.budsas.org)
29/03/2013(Xem: 10622)
Truyện “Quan Âm Thị Kính” không rõ xuất hiện từ thời nào và do ai sáng tác ra. Thoạt tiên truyện là một khúc hát chèo gồm nhiều đoạn, với ngôn từ rất bình dị và tự nhiên, rõ ràng là một khúc hát của dân quê, của đại chúng. Về sau mới có truyện thơ “Quan Âm Thị Kính” xuất hiện, được viết bằng thể thơ “lục bát”, mang nhiều ý nghĩa thâm thúy của cả đạo Nho lẫn đạo Phật. Người ta phỏng đoán rằng tác giả chắc phải là một người có học thức.
29/03/2013(Xem: 16689)
Trăm năm trong cõi người ta, Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau. Trải qua một cuộc bể dâu, Những điều trông thấy mà đau đớn lòng. Lạ gì bỉ sắc tư phong, Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen. Cảo thơm lần giở trước đèn, Phong tình cổ lục còn truyền sử xanh.
29/03/2013(Xem: 9155)
Chuyến hành hương Thái Lan và Nhật Bản bắt đầu từ ngày 22 tháng 10 đến mùng năm tháng 11 năm 2012, vào một sáng mùa thu với nắng vàng ươm và se se gió lạnh. Có ai biết con số ghi tên tham dự chuyến hành hương Nhật Bản này lên đến bao nhiêu không? Trước giờ khóa sổ vào đầu tháng 10 là hơn một trăm vị, sau rút lui từ từ để dừng lại con số 85 với 14 quốc gia trên thế giới. Một con số đáng ngại trong lịch sử đi hành hương của quý Thầy.
20/03/2013(Xem: 3233)
Tác giả sinh năm 1937, 63 tuổi, hiện cư ngụ tại Worcester, Massachusetts. Công việc: Technician hãng điện tử ở Mass. Sau đây là bút ký về California lãnh Giải Thưởng do ông Luận viết. Bài đã phổ biến trong sách VVNM 2001, nhưng “mất tích” trên Việt Báo Online. Xin mời cùng đọc lại. Hình trên, từ trái: Thượng Nghị Sĩ California, Ông Joe Dunn và các viên chức dân cử khai mạc cuộc họp mặt. Phía trái là nữ nghệ sĩ Kiều Chinh. Phía mặt là cô Leyna Nguyen của truyền hình KCAL9.
19/03/2013(Xem: 10281)
Tập truyện “ Làng Cũ - Người Xưa” của Tiền Vĩnh Lạc (Australia) .Sách dầy 216 trang, bìa cứng 4 màu. Bìa trước cảnh nhóm chợ chồm hỗm ở làng quê tỉnh Trà Vinh. Bìa sau hình xe thổ mộ, ngưa kéo, tác giả gọi là “xe kiếng”? Nội dung gồm nhiều truyện ngắn, hồi ký, tài liệu quý giá...cùng nhiều kinh nghiệm sống viết ra ý chừng muốn khuyên răn con cháu, sách đọc thú vị và cần thiết để làm tài liệu nghiên cứu. Sách không bán, in để tặng . Ai cần xin gọi 618-8932- 3912
10/03/2013(Xem: 3110)
Nước Xá Vệ có cô gái nghèo tên Nan Đà, thân thế cô độc thân, sống bằng nghề ăn xin. Bấy giờ, cô thấy các vị vua chúa, quan đại thần, trưởng giả cúng dường Phật và chư Tăng, cô tự nghĩ: “Ta mắc tội báo gì mà sinh vào nhà bần tiện như thế này nên không thể cúng dường đấng phước điền?”. Cô tự hối trách lấy mình.
04/03/2013(Xem: 5585)
Theo lời Hòa Thượng trưởng lão Huyền Tôn kể rằng, những ngày Hòa Thượng còn ở quê nhà, nơi Tổ đình Thiên Ấn – miền Trung, có một chú sa di tên Diệu Mãn. Thường nhật Chú chỉ làm công việc quét chùa. Chú người hiền lành, ít nói, tánh tình ngồ ngộ. Đặc biệt trong chúng, ai nhờ việc gì đều hoan hỷ làm ngay. Cũng chính vì vậy, chú thường bị quí sư huynh đệ la rầy, sao đang làm việc này lại bỏ đi làm việc kia… Tuy vậy, nhưng lúc nào chú cũng hoan hỷ, không ai thấy chú câu chấp việc gì bao giờ.
20/02/2013(Xem: 16538)
Những Câu Chuyện Linh Ứng về Ngài Địa Tạng Vương Bồ Tát (trọn bộ 03 tập) do HT Thích Như Điển dịch Việt: Năm 2007 khi chúng tôi đang nhập thất tại Úc Châu thì có một Phật Tử tên là Huỳnh Hiệp từ Hoa Kỳ có liên lạc qua bằng E-mail cho Thầy Hạnh Tấn và nhờ tôi phiên dịch tác phẩm "Những mẩu chuyện linh ứng của Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát tại Fuchù - Nhật Bản“ từ tiếng Nhật sang tiếng Việt. Tôi bảo cứ gởi một số chuyện tiêu biểu sang Úc, tôi dịch thử. Nếu đồng ý với cách dịch ấy thì tôi sẽ tiếp tục. Sau một tuần lễ, tôi gởi trở lại 3 chuyện đầu đã dịch của quyển một cho Phật Tử nầy và anh ta rất hoan hỷ và nhờ tôi dịch tiếp cho đến hết quyển sách. Tôi trả lời rằng: "Tôi rất sẵn sàng; nhưng tôi rất ít thì giờ; khi nào xong tôi chưa biết; nhưng tôi sẽ cố gắng. Đồng thời việc đánh máy sẽ giao cho các anh chị em thực hiện". Cầm quyển sách trên tay độ 400 trang A4 thấy cũng hơi nhiều; nhưng thôi, cứ cố gắng vậy. Ông bà mình thường nói: „Kiến tha lâu đầy tổ“ quả câu nầy chẳng sai chút nào.
01/02/2013(Xem: 8538)
Tuổi Hồng Con Gái là tác phẩm đầu đời của tôi được viết vào năm 1980 cùng thời gian với tấm ảnh ngoài bìa sách. Tuy lúc đó sống ngay trên quê hương Việt Nam với dân số đông đảo mấy chục triệu người nhưng xung quanh tôi, vì hoàn cảnh hết sức đặc biệt, tôi không có lấy một người bạn, một người thân để tâm tình những lúc vui, buồn trong cuộc sống.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]