Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

10. Trưởng giả làm vua bảy ngày

04/03/201103:31(Xem: 6197)
10. Trưởng giả làm vua bảy ngày

MỘT TRĂM BÀI KINH PHẬT
Đoàn Trung Còn - Nguyễn Minh Tiến dịch và chú giải

PHẨM THỨ NHẤT: BỒ-TÁT ĐƯỢC THỌ KÝ

TRƯỞNG GIẢ LÀM VUA BẢY NGÀY

Lúc ấy, Phật ở gần thành Xá-vệ, trong vườn Kỳ thọ Cấp Cô Độc. Vua nước Câu-tát-la là Ba-tư-nặc và vua nước Ma-kiệt-đề là A-xà-thế đang đánh nhau.

Khi ấy, cả hai vua đều có đủ bốn đoàn quân là: quân cưỡi voi, quân cưỡi ngựa, quân dùng xe và quân đánh bộ. Vua Ba-tư-nặc ra quân thất bại, thua to đến ba lần. Vua chạy trở về nước Câu-tát-la, vào trong thành nội lo rầu phiền muộn, bỏ ăn mất ngủ, đêm ngày lo nghĩ.

Bấy giờ, tại thành Xá-vệ có một người trưởng giả giàu có, vàng bạc châu báu nhiều không kể xiết. Nghe chuyện vua Ba-tư-nặc thất trận trở về phiền muộn trong thành, liền đến tâu với vua rằng: “Tâu bệ hạ! Kẻ hèn này sẵn có nhiều vàng bạc châu báu, xin dâng bệ hạ tùy nghi sử dụng. Có thể lấy đó để tuyển mộ thêm binh lính, mua nhiều ngựa tốt, lại cùng với nước kia giao chiến nữa mà dành phần thắng. Cớ gì mà bệ hạ phải buồn bực như vậy?”

Vua Ba-tư-nặc liền nhận lời. Ông trưởng giả mang hết vàng bạc châu báu dâng lên cho vua, vua lấy đó mà tuyển mộ rất đông quân binh, mua thêm nhiều ngựa tốt. Lại cho người đi khắp nước mà cầu bậc mưu sĩ ra giúp.

Bấy giờ, có một vị tướng giỏi nghe lời hiệu triệu của vua mà đến giúp, nhân đi qua cửa thành nghe có hai vị tướng sĩ cùng nhau luận bàn về binh pháp. Một người nói rằng: “Phép dùng binh nên chọn những quân binh hùng mạnh nhất cho đi trước, những quân binh bậc trung thì đi giữa, còn những quân yếu nhất thì cho đi sau hết.” Vị tướng nghe rồi, khi đến chầu vua liền thuật lại như vậy.

Vua Ba-tư-nặc nghe rồi liền tin theo lời ấy, họp đủ bốn đoàn binh kéo tới đánh vua A-xà-thế, bố trí quân binh mạnh nhất đi đầu và quân binh yếu nhất đi sau. Quả nhiên thắng được quân vua A-xà-thế, thu bắt được rất nhiều voi ngựa, xe cộ, lại thừa thắng mà bắt sống cả vua A-xà-thế nữa.

Vua Ba-tư-nặc dẫn vua A-xà-thế đến chỗ Phật. Tới nơi, vua lạy chào Phật, bạch rằng: “Bạch Thế Tôn! Tôi với vua A-xà-thế thật không sanh lòng oán ghét, song vua ấy tự sanh lòng thù nghịch với tôi mà gây cuộc binh đao. Tuy vậy, vua cha của A-xà-thế ngày trước là bạn hữu của tôi, nên nay tôi không muốn xuống tay hại mạng người. Ý tôi muốn thả cho vua A-xà-thế về nước cũ.”

Khi ấy, đức Phật khen vua Ba-tư-nặc mà nói rằng: “Hay lắm, hay lắm. Đối với chỗ người thân kẻ oán đều giữ lòng bình đẳng như nhau, chính là chỗ các bậc thánh hiền đều khen ngợi.” Phật lại thuyết kệ rằng :

Bại thì sanh lo sợ,
Thắng nên lòng hân hoan.
Nay ngươi thả vua kia,
Đôi bên đều vui cả!
Nếu biết bỏ thắng bại,
Đó là vui lớn nhất.

Vua Ba-tư-nặc nghe Phật thuyết kệ rồi, liền vui vẻ thả vua A-xà-thế cho về nước cũ.

Vua trở về cung, lòng tự nghĩ rằng: “Ta sở dĩ ngày nay được chiến thắng, là nhờ có ông trưởng giả kia dâng lên trân bảo, vàng bạc để chiêu mộ thêm tướng sĩ.” Nghĩ như vậy, liền tức thời cho mời vị trưởng giả đến, bảo rằng: “Ta có được chiến thắng như ngày nay là nhờ có khanh dâng lên tài vật, giúp chiêu mộ binh tướng. Nay ta muốn ban thưởng cho khanh thật trọng hậu, vậy khanh muốn gì cứ nói ra.”

Trưởng giả tâu: “Xin đại vương xá tội cho, tôi mới dám nói.” Vua đáp: “Khanh muốn gì cứ nói, ta sẽ lắng nghe, không bắt tội.” Trưởng giả tâu rằng: “Tôi muốn được thay đại vương mà cầm quyền trị nước trong bảy ngày.”

Vua liền hứa thuận cho, truyền đánh trống loan báo ra khắp nước, lập ông trưởng giả lên làm vua trong bảy ngày.

Ông trưởng giả lên làm vua rồi, liền sai người đi đánh trống mà loan báo khắp nơi trong thành rằng: “Trong hạn bảy ngày, tất cả nhân dân đều được tự do, không bị bắt buộc phải làm bất cứ việc gì do quan viên sai khiến.” Lại sai sứ đến nói với vua các nước nhỏ chư hầu rằng, trong hạn bảy ngày, phải bãi bỏ hết mọi việc triều chính mà về kinh đô bái kiến vua mới.

Khi các vua tề tựu về, ông liền thỉnh Phật và chư tăng đến để cúng dường trọng thể, lại khuyến khích hết thảy các vua chư hầu cùng các vị quan thuộc quy y Tam Bảo. Người người đều nghe lời khuyên của ông mà quy y theo Phật, số nhiều không tính hết.

Ông trưởng giả làm xong những việc ấy, trải qua bảy ngày rồi, liền đến chỗ Phật ngự, lễ bái cung kính và phát lời nguyện lớn rằng: “Nhờ công đức cúng dường hôm nay, trong đời vị lai tôi nguyện sẽ có thể vì những chúng sanh mù lòa mà cứu giúp cho được sáng mắt, vì những chúng sanh chẳng quy y Phật mà độ cho quy y, những chúng sanh không người cứu hộ sẽ được cứu hộ, những chúng sanh không được an ổn sẽ được an ổn, những chúng sanh chưa nhập Niết-bàn sẽ được nhập Niết-bàn.”

Ông trưởng giả phát nguyện rồi, đức Phật liền mỉm cười, từ nơi trán, giữa hai lông mày phóng ra một đạo hào quang năm sắc, bay quanh Phật ba vòng rồi lại theo chỗ trên trán Phật mà bay trở vào.

Khi ấy, A-nan bạch Phật rằng: “Như Lai là đấng tôn quý, chẳng vô cớ mà cười bao giờ. Nay vì nhân duyên gì mà Phật mỉm cười, xin giảng giải cho được biết.”

Phật bảo A-nan: “Ngươi có thấy vị trưởng giả vừa làm vua bảy ngày đây chăng?” A-nan thưa: “Bạch Thế Tôn, con đã thấy.”

Phật nói: “Vị đại trưởng giả đây nhờ công đức thỉnh Phật cúng dường, trải qua ba a-tăng-kỳ kiếp nữa sẽ thành Phật hiệu là Tối Thắng, hóa độ chúng sanh nhiều vô số. Vì nhân duyên ấy mà ta mỉm cười.”

Các vị tỳ-kheo nghe Phật thuyết nhân duyên này xong thảy đều vui mừng tin nhận.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
29/03/2013(Xem: 4047)
Khi tơi đang dịch “Nhân Kiếp và Tai Kiếp” (Human Life And Problems, do hịa thượng tiến sĩ K. Sri Dhammananda) vào giữa tháng 09/2001 tại Toronto thì bất ngờ được biết thầy Thích Tâm Quang bên Mỹ đã dịch xong với tựa đề là “Các Vấn Đề Của Xã Hội Hơm Nay” (web www.budsas.org)
29/03/2013(Xem: 10791)
Truyện “Quan Âm Thị Kính” không rõ xuất hiện từ thời nào và do ai sáng tác ra. Thoạt tiên truyện là một khúc hát chèo gồm nhiều đoạn, với ngôn từ rất bình dị và tự nhiên, rõ ràng là một khúc hát của dân quê, của đại chúng. Về sau mới có truyện thơ “Quan Âm Thị Kính” xuất hiện, được viết bằng thể thơ “lục bát”, mang nhiều ý nghĩa thâm thúy của cả đạo Nho lẫn đạo Phật. Người ta phỏng đoán rằng tác giả chắc phải là một người có học thức.
29/03/2013(Xem: 17193)
Trăm năm trong cõi người ta, Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau. Trải qua một cuộc bể dâu, Những điều trông thấy mà đau đớn lòng. Lạ gì bỉ sắc tư phong, Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen. Cảo thơm lần giở trước đèn, Phong tình cổ lục còn truyền sử xanh.
29/03/2013(Xem: 9279)
Chuyến hành hương Thái Lan và Nhật Bản bắt đầu từ ngày 22 tháng 10 đến mùng năm tháng 11 năm 2012, vào một sáng mùa thu với nắng vàng ươm và se se gió lạnh. Có ai biết con số ghi tên tham dự chuyến hành hương Nhật Bản này lên đến bao nhiêu không? Trước giờ khóa sổ vào đầu tháng 10 là hơn một trăm vị, sau rút lui từ từ để dừng lại con số 85 với 14 quốc gia trên thế giới. Một con số đáng ngại trong lịch sử đi hành hương của quý Thầy.
20/03/2013(Xem: 3327)
Tác giả sinh năm 1937, 63 tuổi, hiện cư ngụ tại Worcester, Massachusetts. Công việc: Technician hãng điện tử ở Mass. Sau đây là bút ký về California lãnh Giải Thưởng do ông Luận viết. Bài đã phổ biến trong sách VVNM 2001, nhưng “mất tích” trên Việt Báo Online. Xin mời cùng đọc lại. Hình trên, từ trái: Thượng Nghị Sĩ California, Ông Joe Dunn và các viên chức dân cử khai mạc cuộc họp mặt. Phía trái là nữ nghệ sĩ Kiều Chinh. Phía mặt là cô Leyna Nguyen của truyền hình KCAL9.
19/03/2013(Xem: 10454)
Tập truyện “ Làng Cũ - Người Xưa” của Tiền Vĩnh Lạc (Australia) .Sách dầy 216 trang, bìa cứng 4 màu. Bìa trước cảnh nhóm chợ chồm hỗm ở làng quê tỉnh Trà Vinh. Bìa sau hình xe thổ mộ, ngưa kéo, tác giả gọi là “xe kiếng”? Nội dung gồm nhiều truyện ngắn, hồi ký, tài liệu quý giá...cùng nhiều kinh nghiệm sống viết ra ý chừng muốn khuyên răn con cháu, sách đọc thú vị và cần thiết để làm tài liệu nghiên cứu. Sách không bán, in để tặng . Ai cần xin gọi 618-8932- 3912
10/03/2013(Xem: 3171)
Nước Xá Vệ có cô gái nghèo tên Nan Đà, thân thế cô độc thân, sống bằng nghề ăn xin. Bấy giờ, cô thấy các vị vua chúa, quan đại thần, trưởng giả cúng dường Phật và chư Tăng, cô tự nghĩ: “Ta mắc tội báo gì mà sinh vào nhà bần tiện như thế này nên không thể cúng dường đấng phước điền?”. Cô tự hối trách lấy mình.
04/03/2013(Xem: 5691)
Theo lời Hòa Thượng trưởng lão Huyền Tôn kể rằng, những ngày Hòa Thượng còn ở quê nhà, nơi Tổ đình Thiên Ấn – miền Trung, có một chú sa di tên Diệu Mãn. Thường nhật Chú chỉ làm công việc quét chùa. Chú người hiền lành, ít nói, tánh tình ngồ ngộ. Đặc biệt trong chúng, ai nhờ việc gì đều hoan hỷ làm ngay. Cũng chính vì vậy, chú thường bị quí sư huynh đệ la rầy, sao đang làm việc này lại bỏ đi làm việc kia… Tuy vậy, nhưng lúc nào chú cũng hoan hỷ, không ai thấy chú câu chấp việc gì bao giờ.
20/02/2013(Xem: 16740)
Những Câu Chuyện Linh Ứng về Ngài Địa Tạng Vương Bồ Tát (trọn bộ 03 tập) do HT Thích Như Điển dịch Việt: Năm 2007 khi chúng tôi đang nhập thất tại Úc Châu thì có một Phật Tử tên là Huỳnh Hiệp từ Hoa Kỳ có liên lạc qua bằng E-mail cho Thầy Hạnh Tấn và nhờ tôi phiên dịch tác phẩm "Những mẩu chuyện linh ứng của Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát tại Fuchù - Nhật Bản“ từ tiếng Nhật sang tiếng Việt. Tôi bảo cứ gởi một số chuyện tiêu biểu sang Úc, tôi dịch thử. Nếu đồng ý với cách dịch ấy thì tôi sẽ tiếp tục. Sau một tuần lễ, tôi gởi trở lại 3 chuyện đầu đã dịch của quyển một cho Phật Tử nầy và anh ta rất hoan hỷ và nhờ tôi dịch tiếp cho đến hết quyển sách. Tôi trả lời rằng: "Tôi rất sẵn sàng; nhưng tôi rất ít thì giờ; khi nào xong tôi chưa biết; nhưng tôi sẽ cố gắng. Đồng thời việc đánh máy sẽ giao cho các anh chị em thực hiện". Cầm quyển sách trên tay độ 400 trang A4 thấy cũng hơi nhiều; nhưng thôi, cứ cố gắng vậy. Ông bà mình thường nói: „Kiến tha lâu đầy tổ“ quả câu nầy chẳng sai chút nào.
01/02/2013(Xem: 8645)
Tuổi Hồng Con Gái là tác phẩm đầu đời của tôi được viết vào năm 1980 cùng thời gian với tấm ảnh ngoài bìa sách. Tuy lúc đó sống ngay trên quê hương Việt Nam với dân số đông đảo mấy chục triệu người nhưng xung quanh tôi, vì hoàn cảnh hết sức đặc biệt, tôi không có lấy một người bạn, một người thân để tâm tình những lúc vui, buồn trong cuộc sống.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]