Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Audio Truyện Cổ Tích: Chín Mươi Ba Kiếp Mới Gặp Lại Con; Việt dịch: HT Tăng Giáo Trưởng Thích Huyền Tôn; diễn đọc: TT Thích Nguyên Tạng

24/09/201808:23(Xem: 8120)
Audio Truyện Cổ Tích: Chín Mươi Ba Kiếp Mới Gặp Lại Con; Việt dịch: HT Tăng Giáo Trưởng Thích Huyền Tôn; diễn đọc: TT Thích Nguyên Tạng
93 kiep moi gap lai con-3

Chín Mươi Ba Kiếp Mới Gặp Lại Con
(Hướng vọng Vu Lan 2551. Vl. 4886. Đinh-Hợi)
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Huyền Tôn
Diễn đọc: Thượng Tọa Thích Nguyên Tạng 





Vào khoảng thời gian hai mươi năm sau Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni nhập diệt, Từ thành Tỳ-Xá-Ly hướng về phía Bắc Thành Ca-Tỳ-La-Vệ. Có một đoàn Tăng lữ gồm 17 vị, họ bước những bước chân nhịp nhàng và đều đặn, tuy không phát ra tiếng động của nhiều bàn chân cùng nện xuống mặt đất bột khô dưới sức nóng của mùa hè oi bức, nhưng không sao tránh khỏi lớp bụi bủn tung tỏa dưới sức dẫm của 34 cái bàn chân, tạo nên một đám mây cuồn cuộn; từ xa, tưởng chừng như các tiên nhân vừa từ trên không đằng vân vừa đáp xuống. Mây bụi vẫn cuộn trôi về phía sau lưng của họ, mặt trời càng rực đỏ và nghiêng hẳn về hướng tây, đến ngã rẽ, trước mặt họ là rừng cây khô trụi lá, một con quạ cô đơn ngoác mỏ kêu: Quạ! Quạ! Quạ!

Đoàn Tăng lữ bỗng dừng bước! Vị Tăng uy nghi đi dẫn đầu ngước mặt nhìn đăm đăm vào con quạ! 16 vị đi sau cũng im lặng nhìn theo, họ đều bất động!??..

20 phút! 30 phút! 45 phút! Con quạ cũng yên lặng nhìn vị Tăng! Chốc, chốc lại nghiêng nghiêng cái đầu in tuồng như nó vừa lắng nghe vừa dò xét, vừa hỏi gì gì đó!?

Một giờ trôi qua! Con quạ chớp đôi cánh kêu lên giọng mừng rỡ: Quá! Quá! Quá! Rồi nó bay liệng một vòng sà xuống nhìn vị Tăng uy nghi. Quá! Quá! Có lẽ nó chào!Và nó bay thẳng vào rừng cây khô! Vị Tăng mỉm cười! Nhưng ngược lại, đôi mắt Ngài đượm nét u buồn??.

Họ là ai? Thì ra, Vị Tăng uy nghi nầy chính là Xà-Dạ-Đa Tôn Giả.

Tôn-Giả là người đã chứng đắc quả vị A-La-Hớn, Tôn-Giả Xà-Dạ-Đa Ngài thường đem theo 16 vị đồ đệ, hành hóa khắp nơi để thuyết pháp và cứu độ chúng sanh, ai có duyên gặp được Tôn-Giả đều thọ nhận được những pháp lạc nhiệm mầu giải thoát các khổ nạn.

Tôn Giả không nói suông, mà Ngài đích thân săn sóc, chỉ dạy thuần thục các phương pháp phải tu như thế nào để công đức kết quả tối thắng và nhờ đó tiêu trừ các ác báo ác quả của nhiều tiền kiếp và sớm đoạn mối dây nhân quả luân hồi, thoát ly sanh tử.

Sau khi con quạ đã bay mất hút qua khỏi rừng cây khô, thì một trong trong các vị đệ-tử đã kính lễ bạch rằng:

Kính bạch Sư Phụ: Do nhân duyên gì, mà Sư Phụ đã đứng khá lâu và mãi im lặng nhìn con Quạ như vậy? Tại sao con Quạ ấy nó không bay đi mà nó cũng nhìn mãi vào Sư Phụ, chúng con vô cùng ngỡ ngàng và nghi hoặc! Chúng con thấy như là Sư Phụ và con Chim Quạ trao đổi, tỏ bày gì gì đó với nhau vậy!
Câu chuyện trước mắt chúng con hôm nay, không biết Sư Phụ có thể giải bày chỉ dạy cho chúng con hay không? Chúng con kính lễ sám hối những lời hỏi và lòng nghi hỏi, mong Sư Phụ từ bi cho chúng con sáng tỏ.

Tôn Giả Xà-Dạ-Đa hiền hòa nói:


 - Chúng ta phải đi nhanh và làm một việc, khi đến thạch thành nghỉ ngơi Sư Phụ sẽ giải bày cho các con hiểu.

to qua

Thế là thầy trò 17 vị, Họ bước nhanh theo hướng bay của con chim Quạ khi đã rời khỏi họ, qua khỏi bên kia rừng cây khô. Ở ven rừng bên đó cây lá đã có màu sắc của rừng cây. Tôn-Giả hướng dẫn các đệ tử đến một cây có nhiều màu lá vàng, trên một chạc cây nhiều nhánh trông thấy có một ổ chim…

Tất cả các đệ tử đều cùng gợi lên một cảm giác “rúng động” len nhẹ vào lưng của họ! Họ như có một động thức tiên tri về cái ổ chim ấy (?).

Tôn-giả lặng lẽ vươn dài cánh tay thần biến hơn một trượng, bưng cả ổ chim từ trên chạc cây cao xuống đặt xuống đất? Một xác chết con chim Quạ! Tất cả đệ tử như biết phải làm gì! Yên lặng! Nhất tâm! và cầu nguyện!.

Tôn Giả nói nhỏ: Các con đi hốt lá khô và ít củi để hỏa thiêu nó! Hoàn tất! Thầy trò Tôn giả quay về hướng Bắc lẳng lặng bước đều, trên lộ trình xuôi ngược 10 dặm đó, chẳng gặp một bóng bộ hành. Một đệ tử reo lên: Thạch Thành đã thấy phía trước rồi đó sư phụ! Tất cả như cảm thấy khỏe ra.

Thạch Thành, chỉ là một bờ đá sắp chồng gắn dính lên nhau; chỗ thấp cao quá khỏi đầu, chỗ cao vươn cao trông như trái núi, chiều dài hơn trăm bộ, khoản giữa xếp đá vòng cung như một cái động, có thể che nắng mưa cho vài trăm người tạm trú ngụ trong đó. Bên trong còn có những phiến đá có thể nằm tựa lưng hay ngồi nghỉ ngơi.

Sau khi dùng lương khô và uống nước, các đệ tử cùng ngồi chung quanh nhìn sư phụ họ cảm thấy lòng rộn rã, nôn nao và một cảm giác thổn thức về điều mà họ cho là thật đủ nhân duyên để nghe, để biết và nhất định là một đạo lý… chứ không thể câu chuyện tầm thường được.

Tôn Giả Xà-Dạ-Đa, bấy giờ tôn dung của Ngài thật nghiêm trang còn pha một tí đăm chiêu về cái câu chuyện mà Ngài đã hứa giải bày cho đệ-tử. Câu chuyện có giúp gì cho đệ tử thêm phần kiến văn và từ đó nhận thức rộng sâu về diệu lý nhân quả hay chỉ là một hý luận (?)!.


93 kiep moi gap lai con-3

Photo: Hoàng Lan (Portsea 26 Dec 2017)




Tôn Giả nhìn qua các đệ-tử: Các con có biết không? Ngài hỏi, nhưng thật ra chỉ là một cách để mở đầu câu chuyện “Cách đây 93 kiếp, hồi đó đã gần kiếp cuối của Trang-Nghiêm-kiếp, Đức Tỳ Xá Phù Phật, bậc Chí Tôn Giáo Chủ thuyết pháp suốt thời gian 20 tiểu kiếp, ta có duyên được nghe pháp nên muốn quyết tâm xuất gia cầu giải thoát và giác ngộ. Chẳng may cho ta vì, gia đình của ta rất giàu có, cha mẹ quyết ý ngăn trở vì ta là con một. Ta thưa trình với cha mẹ thật nhiều lý lẽ luân hồi trong sáu nẻo khổ đau…Cuối cùng cha mẹ ta chấp nhận với một điều kiện! Cái điều kiện mà muôn ngàn người trên thế gian có cùng hoàn cảnh như ta, không ai tránh khỏi được; đó là phải lập chánh thê, có con trai nối giỏi rồi sau đó mới có thể xuất gia.


Giáo pháp của Phật, Lễ hiếu làm đầu ta không dám xóa bỏ, chỉ trừ trượng hợp vì hiếu mà gây ra đớn đau và tàn sát sanh linh! Diệt vong vô số nhân mạng và của cải thì phải đành bất hiếu. Các con phải thấm sâu đạo lý ấy.

Bảy năm sau, ta đã có một con trai vừa đúng sáu tuổi. Đứa con nầy, thật thông minh đĩnh ngộ, ta rất yêu nó! Nhưng ta không thể tiếp tục sự vướng mắc mãi trong mối giây oan nghiệt của luân hồi. Ta thưa với cha mẹ, với bổn phận và vâng lời con đã làm xong, và qua phân trần nhắc lại lời hứa mà vợ ta đã chấp nhận để ta xuất-gia vào bảy năm về trước. Chia ly trong lúc mà những thân ái vây quanh ràng buộc quả là không dễ, những lòng ta tự thề quyết phải độ cho cha mẹ, thân bằng, chúng sanh, nàng và con thoát ly sanh tử khi ta đắc đạo.

Đêm hôm ấy, gió mùa trở lạnh canh năm là canh mà mọi người đang mê ngủ, ta lạy cha mẹ rồi ngang qua phòng ngủ của hai mẹ con nàng, ta định ngỏ vài lời từ biệt, nhưng ta thôi, chỉ tạo thêm vướng bận; ta lặng lẽ khép cửa ra đi.

Vì nhà cửa đồ sộ, nên từ mái hiên ra đến cổng ít lắm cũng xa 50 bộ. Ta vô cùng kinh ngạc cửa cổng đã mở trống một bên! Thằng bé con ta, Nó đã ngồi đó án ngữ nghạch cửa để bước ra tự bao giờ!?

cha conTa vừa xúc động! Vừa bàng hoàng! Ta ngồi xuống ôm con, nhìn vào mặt nó. Trong ánh sáng lờ mờ mặt nó như se tím, đôi mắt căm căm. Ta cảm thấy run sợ trước cái nhìn cương quyết và trừng trừng của nó! Ta lạnh buồn hỏi:

-Con, giờ nầy sao con không ngủ? Sao con có thể ra ngồi được ở đây? Mẹ đâu?

Nó chắc nịch:

-Con đợi cha đã lâu! Để tiễn biệt cha và cũng để tiễn con! Ta bỗng dưng rúng động và tê điếng cõi lòng!

-Cha đi xuất gia, chứ nào có bỏ con hay xa lánh con đâu!

Nó nhìn thẳng vào ta:

-Con biết! Cha đi xuất gia, nhưng con thì từ nay con đã mất cha! Một thằng bé con nít sáu tuổi đầu, còn bú sữa mẹ, sống không cha! Sống để mà chi! Tiễn cha đi rồi, con cũng sẽ tự con tiễn lấy con!


Nói xong, nó đưa tay lên chớp theo một tia ánh sáng, trong tay thằng bé đã có sẵn một con dao! Ta khiếp quá. Ôm chặt nó và giữ cứng con dao.


Nó cười nghe như tiếng thép và nói:

- Cha đi đi, cho trọn nguyện ước. Cha đi rồi con cũng đi, con quyết không sống với cuộc đời không cha!

Ta bấn loạn, nước mắt ràn rụa! Ta nói như điên: Không không, cha không đi, không đi đâu cả! Cha thương con! Cha sống bên con! Cha ở với con mà!.

Thằng bé vất đao xuống, nó nhảy bổ lên ôm chặt vào cổ ta, nó cắn vào cổ ta mà lệ tràn xuống đôi má nó! Ta ôm con vào nhà, bình minh đã sáng từ lúc nào.

 Ngày nay, ta là đệ tử của Từ phụ Thích Ca, sau khi chứng quả A-La-Hớn rồi, Ta dùng Túc-mạng và Thiên-nhãn tìm kiếm đứa con 93 kiếp về trước, đứa con đã ngăn trở bao kiếp tu hành chứng quả của ta, không biết nó đọa ngã nào trong 6 nẻo luân hồi! Ta đã tìm hết trong cõi người, không thấy nó! Trong loài cá biển! Cá đồng và hồ ao cũng không! Trong các cầm thú cọp beo, rắn rết, gà vịt cũng không gặp nó! Không ngờ ngày nay gặp nó ở trong loài chim, lại đang thọ thân con chim quạ! Ôi! 93 kiếp qua rồi! Trong suốt giờ, nó nghe pháp và sám hối! Con ta giờ đây đã thoát kiếp bàng sanh. Căn lành đầy đủ, đến ngày Phật Di-Lặc ra đời nó sẽ giác ngộ trong hội đầu Long-Hoa. Cầu nguyện tất cả chúng sanh đồng thành Phật Đạo.

Ôi, chín mươi ba kiếp rồi mới gặp được con.

 Đệ Tử kính lễ Thương kính Đức Tôn Giả Xà Dạ Đa.

Nam Mô Xà Dạ Đa Tôn Giả!

Con Thích Huyền Tôn Kính Bái.



-----------------------

HT Thích Huyền Tôn
Phỏng dịch từ Hán Tạng “ Phật Thuyết Xuất Gia Công Đức Kinh”

Ý kiến bạn đọc
06/10/202002:04
Khách
Giọng đọc của SP rất truyền cảm và hay lắm đã làm con vừa nghe vừa chạy theo cả những vòng chữ đã làm thành 1 tác phẩm để đời của Sư Ông Huyền Tôn, kèm hình minh hoạ của Hoàng Lan thật rất công phu và dùng tâm quyết cho ra những tác phẩm để lại cho đời 1 mẫu chuyện nhân quả và tình người của Tôn Giả Xà-Dạ-Đa thật cảm động. Đúng là đối với 1 người đã muốn xuất gia rồi thì đời này không đủ duyên thì đời đời cũng sẽ đủ duyên và đạt thành ước nguyện. Con thật kính tri ân Sư Ông, SP và QTD
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/10/2010(Xem: 2084)
Một vị thương gia lập nghiệp từ tay trắng, sau kiếm được rất nhiều tiền nhưng vì buôn bán trong thời kinh tế không ổn định, khiến anh ta trở nên phá sản, nợ nần chồng chất. Nghĩ mãi không tìm ra cách giải quyết, anh ta bèn ra bờ sông tự tử. Vào lúc canh ba một đêm nọ, anh ta đến trước bờ sông, bỗng nhiên nhìn thấy một thiếu nữ đang ngồi khóc thảm thiết, anh bèn đến hỏi cô gái: - Có chuyện gì mà đêm hôm khuya khoắt cô ngồi khóc một mình ở đây?
16/10/2010(Xem: 3315)
Hàng ngàn năm trước tây lịch, khi thổ dân Dravidian còn ngự trị khắp lãnh thổ Ấn Độ cổ thời, vùng phía tây Hy Mã Lạp Sơn là lãnh địa của rắn. Vốn là vùng rừng núi bạc ngàn nằm trên nóc nhà thế giới, Hy Mã Lạp Sơn là nơi thâm u bí hiểm với sơn lam chướng khí trùng trùng và vô số loài thú dữ cư ngụ sẵn sàng lấy mạng người để làm thức ăn. Thời đó, thổ dân Dravidian không có đủ vũ khí hùng mạnh để chống cự với các loài mãnh thú và tự bảo vệ mình. Từng người vào rừng săn tìm thức ăn đã không thấy trở về. Độc địa nhất không phải chỉ là những hổ, cọp, gấu, beo nằm lồ lộ chờ mồi bên bờ suối, dưới gốc cây hay trong khe đá, mà ngay bên dưới lớp lá khô mục của đường rừng là những loài rắn nguy hiểm chực chờ bước chân người.
16/10/2010(Xem: 2657)
Trong thiền không có đầu đuôi, khúc chiết, lý luận. Nó đập vỡ lý luận. Đó là thế giới lý tưởng của câu thơ lớp ba mồ côi luận lý. Thế giới của những câu cuối lấc cấc, mẹ gà con vịt. Đừng bắt tôi giải thích; hãy lang thang với tôi trong câu cuối của dăm ba chuyện thiền nổi tiếng.
16/10/2010(Xem: 2815)
Trong đời, tôi đã thấy mặt trăng lần nào chưa? Nhìn trăng, tôi nhìn cả đời. Nhưng thấy trăng, tôi không dám nói chắc. Khi tôi nhìn trăng trước mắt, tôi nghĩ đến trăng nửa khuya loáng thoáng trên tàu lá chuối sau vườn cũ. Tôi nghĩ đến đèn trung thu lúc nhỏ. Tôi nghĩ đến cái chõng tre giữa sân trên đó, ngày xưa, tôi nằm nhìn mây bay. Nhìn trăng, tôi không thấy trăng. Chỉ thấy lá chuối, chõng tre. Thấy cả tôi với trẻ con hàng xóm nô đùa. Có lần tôi trốn tìm với chúng nó, bị lộ, tôi nhảy bừa vào bụi tre, bất ngờ có đứa con gái đã ngồi sẵn trong đó. Tôi sợ hoảng, toan vọt ra thì nó kéo tay tôi lại, ấn vai tôi xuống, cười đồng lõa. Trong loáng thoáng của cây lá, tôi thấy hai cái răng cửa của nó sáng ngời ánh trăng. Bây giờ, nhìn trăng non, tôi thấy cái miệng và hai cái răng. Tựa như hai cái răng của nó phát ánh sáng và in hình miệng nó lên bầu trời.
16/10/2010(Xem: 2172)
Ngày xưa, một nhà quan lang họ Cao có hai người con trai hơn nhau một tuổi và giống nhau như in, đến nỗi người ngoài không phân biệt được ai là anh, ai là em
16/10/2010(Xem: 2035)
Ngày xưa, vào hồi Tây Sơn khởi nghĩa, có một chàng trai người vùng Đồng Nai, có tài cả văn lẫn võ, đã vung gươm hưởng ứng sự bất bình của thiên hạ.
16/10/2010(Xem: 1859)
Ngày xửa... Ngày xưa... Có một cô bé rất giàu lòng yêu thương. Cô yêu bố mẹ mình, chị mình đã đành, cô còn yêu cả bà con quanh xóm...
15/10/2010(Xem: 2250)
Một danh tướng về già muốn tặng thanh kiếm báu của mình cho một tướng quân ở xa. Ông giao trọng trách đó cho một gia nhân, cũng là một tay kiếm xuất chúng. Cẩn thận như vậy, ông vẫn không yên lòng, nghĩ rằng kiếm sĩ này chưa chắc đã đủ chín chắn để giữ kiếm không bị cướp dọc đường. Thanh kiếm không những quý về chất thép mà còn quý vì chuôi kiếm có nạm vàng và ngọc vua ban.
13/10/2010(Xem: 1705)
Có hai vợ chồng một ông già tên là Dã Tràng. Trong vườn họ có một hang rắn. Thường ngày làm cỏ gần đấy, ông già vẫn thấy có một cặp vợ chồng rắn...
13/10/2010(Xem: 3286)
Vào Thứ Sáu, ngày 8 tháng 10 năm 2010, Ủy Ban Giải Nobel Hòa Bình Na Uy đã công bố giải Nobel Hòa Bình năm 2010 được trao cho Lưu Hiểu Ba. Lưu Hiểu Ba, sinh năm 1955 tại thủ phủ Trường Xuân của tỉnh Cát Lâm ở đông bắc Trung Quốc, là nhà tranh đấu bất bạo động cho tự do, dân chủ và nhân quyền tại Trung Quốc. Ông đã từng tham gia phong trào sinh viên đấu tranh trong biến cố Thiên An Môn năm 1989 và sau đó liên tục bị sách nhiễu, quản chế tại gia và tù tội. Ngày 8 tháng 12 năm 2008, ông đã bị bắt vì cùng một số nhà tranh đấu dân chủ và nhân quyền Trung Quốc công bố Hiến Chương 2008 đòi xóa bỏ chế độ cai trị độc đảng để tiến tới một xã hội dân chủ cho Trung Quốc. Hiến Chương 2008 cho đến nay đã có hơn 8,500 người tham gia ký tên. Vì Hiến Chương 2008, Lưu Hiểu Ba đã bị chính quyền cộng sản Trung Quốc kết án 11 năm tù. Hiện ông vẫn còn ngồi tù ở Liễu Ninh, Trung Quốc.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567