Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hai Ngài, Hàn-Sơn và Thập-Đắc, Hỏi Đáp với nhau.

04/03/201101:20(Xem: 6156)
Hai Ngài, Hàn-Sơn và Thập-Đắc, Hỏi Đáp với nhau.


Han Son Thap Dac

Câu chuyện thuở xưa của
Hai Ngài, Hàn-Sơn và Thập-Đắc, Hỏi Đáp với nhau.


HT. Thích Huyền Tôn dịch

Ngài Hàn-Sơn : Trong thế gian mà bị người phỉ báng, khi dễ , nhục mạ, cười chê, khinh khi , chà đạp,  ghen ghét , đè bẹp, đố kị ta. Như thế, ta phải xử trị cách nào ?

Ngài Thập-Đắc trả lời : Thản nhiên vì họ mà nhẫn, mà nhường,  mà cung kính, là trọng tự do của họ,  mà tránh đi, cuối cùng đừng để ý tới họ nữa. Chờ vài năm sau sẽ gặp họ.

Hàn-Sơn lại hỏi : Họ vẫn giữ quyết liệt như vậy ! Có thể trốn núp được chăng ?

Ngài Thập-Đắc nói : " Tôi đã từng thuộc Bài Kệ của Bồ-Tát Di-Lặc. Bạn lắng nghe ! Tôi vì Bạn mà niệm bài kệ :


  Hán ngữ    

Việt ngữ

Lão chuyết xuyên nạp áo

Lão mặc chiếc áo nạp.

Đạm phạn phúc trung bảo

 Cơm lạt một bụng no,

Bổ phá hảo giá hàn

 Áo rách che giá lạnh,

Vạn sự tùy duyên liễu

 Muôn việc tự theo duyên.

Hữu nhơn mạ lão chuyết

Có người mắng đuổi lão,

Lão chuyết chỉ thuyết "Hảo"

 Chạy ù lão nói "Tốt",

Hữu nhơn đả lão chuyết

 Có người ví đánh lão,

Lão chuyết tự thùy đảo

Lão té, ngủ giấc dài.

Thế thóa tại diện thượng

 Chê bai khạt trước mặt,

Tùy tha tự càn liễu

Cứ để tự nó khô,

Ngã dã tỉnh lực khí

 Ta đầy đủ năng lực,

Tha nhơn vô não phiền

 Người khác không não phiền,

Giá dạng Ba-La-Mật

 Đó là đến-Bờ-Giác,

Tiện thị diệu trung bảo

 Của báu trong nhiệm mầu,

Nhược tri giá tiêu tức

Nếu biết tiêu tức nầy,

Hà sầu đạo bất liễu

 Buồn chi đạo lâu mau.

Nhơn nhược tâm bất nhược

 Người yếu, tâm không yếu,

Nhơn bần đạo bất bần

 Người nghèo, đạo chẳng nghèo,

Nhất tâm yếu tu hành

 Một lòng gắng tu hành,

Thường tại đạo trung biện

 Thường xử theo trung đạo,

Thế nhơn ái vinh hoa

 Người đời chuộng vinh hoa,

Ngã khước bất đãi kiến

 Ta bỏ, không chờ nó,

Danh lợi, tổng thị không

 Lợi danh đều là không.

Ngã tâm vô yểm túc

 Tâm ta không chán, thích

Đôi kim tích như sơn

 Vàng khối chất như núi,

Nan mãi vô thường hận

Chẳng đổi được vô-thường.

Tử-Cống, tha năng ngôn

 Tử-cống ông ấy nói,

Châu-Công hữu thần toán

 Châu-Công giỏi thần toán,

Khổng-Minh đại-trí mưu

 Khổng-Minh trí mưu lớn,

Phàn Khoái cứu chủ nan

Phàn-Khoái cứu chủ khó,

Hàn-Tín công lao đại

 Hàn-Tín công lao to,

Lâm tử chỉ nhút kiếm

 Chỉ một kiếm là chết,

Cổ kim đa thiểu nhơn

 Xưa nay bao nhiêu người,

Na cá hoạt kỷ thiên

 Mấy ai sống ngàn tuổi,

Giá cá trình anh hùng

 Ai đã làm anh hùng,

Giá cá tố hảo hớn

Ai đã làm hảo hớn,

Khán khán lưỡng tẫn bạch

Cứ xem tóc râu trắng,

Niên niên dung nhan biến

 Hằng năm dung mạo đổi,

Nhựt nguyệt xuyên thoan chức

 Ngày tháng đi như thoi,

Quan âm như tạ tiễn

Sáng tối dường tên bắn,

Bất cửu bịnh lai xăm

 Chốc chốc bịnh lại đến,

Đê đầu ám ta thán

Cúi đầu thầm than thở,

Tự tưởng niên thiếu thời

 Những tưởng trẻ trung hoài,

Bất bả tu hành biện

 Khi khỏe chẳng chịu tu,

Đắt bịnh tưởng hồi đầu

 Bịnh rồi quay lai tiếc,

Diêm vương vô chuyển hạn

 Diêm vương không đợi chờ,

Tam thốn khí đoạn liễu

 Thở ra, không trở lại, !

Nã chỉ na cá biện

 Đã cùng đường giải quyết.

Dã bất luận thị phi

Phải quấy cũng hết rồi,

Giả bất bả gia biện

Việc nhà đành buông trôi,

Giả bất tranh nhơn ngã

 Chẳng còn đua nhân ngã,

Giả bất tố hảo hớn

Chẳng thèm làm hảo hớn,

Mạ trước giả bất ngôn

 Bị mắng vẫn nín thinh,

Vấn trước như á hớn

 Ai hỏi, như câm điếc,

Đã trước giả bất lý

 Ai đánh cũng mặc kệ,

Suy trước hổn thân chuyển

 Thân về chốn minh mông,

Giả bất phạ nhơn tiếu

 Sợ chi ai đàm tiếu,

Giả bất tố kiểm diện

 Đâu còn cơn mặt đỏ,

Nhi nữ khốc đề đề

 Con cái khóc hu hu,

Tái giả bất đắt kiến

 Mắt đó, đâu nhìn thấy,

Hiếu cá tranh lợi danh

 Những lợi danh giành được,

Tu bả hoang dã bạn

 Là bạn với đồng hoang,

Ngã khán thế thượng nhơn

 Ta xem người nhân thế,

Đô thị tinh chỉ đạm

 Đều như giọt sương rơi,

Khuyến quân tức hồi đầu

Mong ai bừng tỉnh lại,

Đơn bả tu hành cáng

 Giử lấy đạo tu hành,

Tố cá đại trượng phu

 Xứng đáng bậc trượng phu,

Nhứt đao triệt lưỡng đoạn

 Đao tuệ chém lợi danh,

Khiêu xuất hồng hỏa khanh

 Vượt khỏi hầm lửa đỏ,

Tố cá thanh lương hớn

 Làm con người trong sạch,

Ngộ đắt trường sanh lý

Ngộ lý lẽ chơn thường,

Nhật nguyệt vi lân lữ

 Nhật nguyệt là bạn hữu.

 


Mùa Vu-Lan 2.544. Việt-Lịch 4.879 Canh-Thìn.

                                          

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/10/2010(Xem: 2084)
Một vị thương gia lập nghiệp từ tay trắng, sau kiếm được rất nhiều tiền nhưng vì buôn bán trong thời kinh tế không ổn định, khiến anh ta trở nên phá sản, nợ nần chồng chất. Nghĩ mãi không tìm ra cách giải quyết, anh ta bèn ra bờ sông tự tử. Vào lúc canh ba một đêm nọ, anh ta đến trước bờ sông, bỗng nhiên nhìn thấy một thiếu nữ đang ngồi khóc thảm thiết, anh bèn đến hỏi cô gái: - Có chuyện gì mà đêm hôm khuya khoắt cô ngồi khóc một mình ở đây?
16/10/2010(Xem: 3317)
Hàng ngàn năm trước tây lịch, khi thổ dân Dravidian còn ngự trị khắp lãnh thổ Ấn Độ cổ thời, vùng phía tây Hy Mã Lạp Sơn là lãnh địa của rắn. Vốn là vùng rừng núi bạc ngàn nằm trên nóc nhà thế giới, Hy Mã Lạp Sơn là nơi thâm u bí hiểm với sơn lam chướng khí trùng trùng và vô số loài thú dữ cư ngụ sẵn sàng lấy mạng người để làm thức ăn. Thời đó, thổ dân Dravidian không có đủ vũ khí hùng mạnh để chống cự với các loài mãnh thú và tự bảo vệ mình. Từng người vào rừng săn tìm thức ăn đã không thấy trở về. Độc địa nhất không phải chỉ là những hổ, cọp, gấu, beo nằm lồ lộ chờ mồi bên bờ suối, dưới gốc cây hay trong khe đá, mà ngay bên dưới lớp lá khô mục của đường rừng là những loài rắn nguy hiểm chực chờ bước chân người.
16/10/2010(Xem: 2659)
Trong thiền không có đầu đuôi, khúc chiết, lý luận. Nó đập vỡ lý luận. Đó là thế giới lý tưởng của câu thơ lớp ba mồ côi luận lý. Thế giới của những câu cuối lấc cấc, mẹ gà con vịt. Đừng bắt tôi giải thích; hãy lang thang với tôi trong câu cuối của dăm ba chuyện thiền nổi tiếng.
16/10/2010(Xem: 2816)
Trong đời, tôi đã thấy mặt trăng lần nào chưa? Nhìn trăng, tôi nhìn cả đời. Nhưng thấy trăng, tôi không dám nói chắc. Khi tôi nhìn trăng trước mắt, tôi nghĩ đến trăng nửa khuya loáng thoáng trên tàu lá chuối sau vườn cũ. Tôi nghĩ đến đèn trung thu lúc nhỏ. Tôi nghĩ đến cái chõng tre giữa sân trên đó, ngày xưa, tôi nằm nhìn mây bay. Nhìn trăng, tôi không thấy trăng. Chỉ thấy lá chuối, chõng tre. Thấy cả tôi với trẻ con hàng xóm nô đùa. Có lần tôi trốn tìm với chúng nó, bị lộ, tôi nhảy bừa vào bụi tre, bất ngờ có đứa con gái đã ngồi sẵn trong đó. Tôi sợ hoảng, toan vọt ra thì nó kéo tay tôi lại, ấn vai tôi xuống, cười đồng lõa. Trong loáng thoáng của cây lá, tôi thấy hai cái răng cửa của nó sáng ngời ánh trăng. Bây giờ, nhìn trăng non, tôi thấy cái miệng và hai cái răng. Tựa như hai cái răng của nó phát ánh sáng và in hình miệng nó lên bầu trời.
16/10/2010(Xem: 2173)
Ngày xưa, một nhà quan lang họ Cao có hai người con trai hơn nhau một tuổi và giống nhau như in, đến nỗi người ngoài không phân biệt được ai là anh, ai là em
16/10/2010(Xem: 2035)
Ngày xưa, vào hồi Tây Sơn khởi nghĩa, có một chàng trai người vùng Đồng Nai, có tài cả văn lẫn võ, đã vung gươm hưởng ứng sự bất bình của thiên hạ.
16/10/2010(Xem: 1859)
Ngày xửa... Ngày xưa... Có một cô bé rất giàu lòng yêu thương. Cô yêu bố mẹ mình, chị mình đã đành, cô còn yêu cả bà con quanh xóm...
15/10/2010(Xem: 2250)
Một danh tướng về già muốn tặng thanh kiếm báu của mình cho một tướng quân ở xa. Ông giao trọng trách đó cho một gia nhân, cũng là một tay kiếm xuất chúng. Cẩn thận như vậy, ông vẫn không yên lòng, nghĩ rằng kiếm sĩ này chưa chắc đã đủ chín chắn để giữ kiếm không bị cướp dọc đường. Thanh kiếm không những quý về chất thép mà còn quý vì chuôi kiếm có nạm vàng và ngọc vua ban.
13/10/2010(Xem: 1706)
Có hai vợ chồng một ông già tên là Dã Tràng. Trong vườn họ có một hang rắn. Thường ngày làm cỏ gần đấy, ông già vẫn thấy có một cặp vợ chồng rắn...
13/10/2010(Xem: 3287)
Vào Thứ Sáu, ngày 8 tháng 10 năm 2010, Ủy Ban Giải Nobel Hòa Bình Na Uy đã công bố giải Nobel Hòa Bình năm 2010 được trao cho Lưu Hiểu Ba. Lưu Hiểu Ba, sinh năm 1955 tại thủ phủ Trường Xuân của tỉnh Cát Lâm ở đông bắc Trung Quốc, là nhà tranh đấu bất bạo động cho tự do, dân chủ và nhân quyền tại Trung Quốc. Ông đã từng tham gia phong trào sinh viên đấu tranh trong biến cố Thiên An Môn năm 1989 và sau đó liên tục bị sách nhiễu, quản chế tại gia và tù tội. Ngày 8 tháng 12 năm 2008, ông đã bị bắt vì cùng một số nhà tranh đấu dân chủ và nhân quyền Trung Quốc công bố Hiến Chương 2008 đòi xóa bỏ chế độ cai trị độc đảng để tiến tới một xã hội dân chủ cho Trung Quốc. Hiến Chương 2008 cho đến nay đã có hơn 8,500 người tham gia ký tên. Vì Hiến Chương 2008, Lưu Hiểu Ba đã bị chính quyền cộng sản Trung Quốc kết án 11 năm tù. Hiện ông vẫn còn ngồi tù ở Liễu Ninh, Trung Quốc.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567