Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Xuân Viên

25/12/201011:39(Xem: 2709)
Xuân Viên



Co_Xuan_Vien

Chúng ta,
 những người bỏ xứ ra đi, đã quay lưng với cổng trường ngày cũ, nhưng lòng vẫn còn tưởng nhớ đến những hình ảnh thân yêu của bạn bè ngày nào! Vẫn mong ước ngày trở lại để tìm kiếm ký ức thầm kín ngày xưa, để được nhìn gặp những người ở lại của thuở ấy, nhưng những người ở lại có còn gì nữa đâu? Đói khổ đã làm mòn mỏi thêm cuộc sống, tất cả chỉ còn biết đem hơi sức bám vào nhịp thở, sống cho qua chuỗi ngày còn lại.
Tôi quen chị Xuân Viên khi được đổi về trường Sương Nguyệt Anh (SNA). Hình ảnh một con người tuy nhỏ bé nhưng lúc nào cũng đầy nghị lực đã đập vào mắt tôi và dần dần từ chỗ quen biết, chúng tôi đã thương mến nhau từ lúc nào cũng không hay nữa!



Nói đến chị, phải nói đến một con người mẫu mực, một cô giáo hoàn toàn gương mẫu đúng phong cách một nhà giáo đầy đạo đức. Đó là người mà tôi mến phục nhất và lúc nào cũng chiếm trọn trong tôi một niềm thương yêu trìu mến và bất tận.

Giao cho chị phụ trách làm giáo sư hướng dẫn một lớp nào, coi như nhà trường khỏi phải lo lắng gì về lớp đó nữa. Từ sổ sách cho đến tập vở, tất cả đều trình bày mạch lạc, trang trí đẹp vô cùng. Chị đã để hết tâm trí mình vào công tác giáo dục mà không biết mệt mỏi, cuộc đời chị sinh ra như để dâng hiến hết cho học đường.

Một lần chị làm Chủ tịch Hội đồng thi tại trường SNA, một người bạn đã hỏi tôi:

- Con người xinh đẹp vậy mà sao không chịu lấy chồng?

Làm sao tôi trả lời được khi cuộc sống nào cũng có những tâm tư thầm kín riêng của nó. Mà thật thế, con người tuy nhỏ nhắn nhưng khuôn mặt rất xinh, đã từng đi tu nghiệp ở Pháp về, tài năng đầy đủ nhưng chị vẫn sống khép kín một mình, âm thầm một bóng trên lối đi và lối về.

Sau 1975, với bao sầu muộn trước thời cuộc chồng chất, với những khó khăn về kinh tế, tôi thấy chị mệt mỏi nhiều. Chị sống với gia đình một người em cũng là giáo viên, cư ngụ ở một con hẻm đường Trương Minh Giảng, sau lưng trường Đại Học Vạn Hạnh. Với chiếc xe đạp mini hai bánh nhỏ xíu, ngày ngày leo hết con dốc của cầu Trương Minh Giảng cũng đủ mệt bở hơi tai rồi. Vậy mà chị còn dạy thêm ở trung tâm đêm Lê Hồng Phong nữa. Đêm đêm nhìn con người nhỏ bé đó đạp xe lọc cọc cho đến nhà, lòng tôi xót xa quá mà số tiền kiếm được có là bao! Đã thế chị đâu có ở yên được trong căn nhà đó, chủ nhà không muốn cho thuê nữa nên đã tìm đủ mọi cách để đuổi đi. Nhớ một lần tôi đến thăm chị, chưa kịp dựng chiếc xe trước sân, chị đã tất tả chạy ra bảo tôi phải đem luôn chiếc xe vào nhà kẻo chủ ở trên gác sẽ dội nước xuống. Cuộc sống của chị là thế, người ta đối xử tàn tệ như vậy mà phải cắn răng chịu đựng, nếu không thì dọn nhà đi đâu bây giờ?

Dần dà với thời gian, không chịu đựng nổi chị đã ngã gục và phải vào bệnh viện. Chúng tôi rất buồn và lo lắng cho chị vô cùng, nếu chị phải từ giã nhà trường cũng giống như ca sĩ phải ngưng tiếng hát, cuộc đời chị sẽ buồn tẻ biết bao và chị sẽ sống ra sao?

Cũng may chị đã bình phục lần lần nhưng không còn phong độ như xưa nữa, không còn một Xuân Viên đầy duyên dáng và linh động mà là một con người gầy rạc đi, ai thấy cũng phải xót xa ái ngại!

Tôi ra đi, chị buồn nhiều vì đã mất đi một người bạn; riêng tôi cũng không khỏi ân hận là vì hoàn cảnh mà phải lặng lẽ ra đi, không từ giã được chị dù chỉ một lời. Tuy vậy, tôi vẫn không quên chị và tình cảm tôi dành cho chị vẫn không phôi pha với thời gian.

Một hôm, vừa bước chân ra cửa, tôi nhận được thư từ bên nhà. Ra đến bến xe, dù trời đang đổ tuyết, tôi vội vã bóc thư ra đọc. Một niềm xúc động dâng lên ngập tràn làm tôi muốn khóc khi hay tin chị đã xuất gia. Suốt ngày hôm đó tôi cứ ngơ ngơ ngẩn ngẩn không tin là sự thật – dù con đường chị đã chọn rất có ý nghĩa nhưng sao tôi vẫn bàng hoàng! Thì ra chị đã dọn trước cho mình một con đường thanh thản của những ngày xế bóng sắp đến.

Cha mẹ không còn, một người chị đã có gia đình sống đời công nhân viên cũng chẳng khá gì, em trai bị "hy sinh vì nghĩa vụ quân sự" ở chiến trường Kampuchia; người em gái mà chị đang tá túc hoàn cảnh lại càng bi thương hơn nữa. Chồng cô ta bị mù, tiền lương ba đồng ba cọc của một giáo viên tiểu học làm sao nuôi nổi một ông chồng mù và hai đứa con. Anh ấy bị bắt chỉ vì hoạt động quá hăng say cho Gia Đình Phật Tử, Cộng sản không chấp nhận, nghi ngờ tất cả và bắt giam. Sau đó anh đã ra tù với một thân xác tàn tạ, đôi mắt không còn thấy ánh sáng nữa.

Tôi không nghĩ cuộc sống thực tế quá thê thảm đã làm cho chị không còn vui thích nữa, cũng không còn gì phấn khởi để chân chị bước tới, theo cách nói thông thường. Mà với tôi, chị là một Phật tử thuần thành đầy nghị lực và giàu niềm tin vào Tam Bảo. Những lúc rảnh rỗi chị thường say sưa giảng cho tôi nghe những lời Phật dạy. Và giống như chị, tôi tin Phật Pháp nhiệm mầu, lòng từ bi và cứu độ của Bồ Tát Quán Thế Âm có thể hóa giải tất cả mọi chướng duyên của cuộc đời. Có những khi chúng tôi ngồi hằng giờ bên nhau, chia xẻ cho nhau những hiểu biết và linh nghiệm của riêng mình về hạnh nguyện của Bồ Tát Quán Thế Âm, vị Bồ Tát của tình thương mà chúng tôi học được từ những buổi nghe giảng của Chư Tôn Đức.

Chị thường nhắc lại lời Phật dạy, chúng ta ai cũng có khả năng thành Phật, chỉ tại vô minh che lấp Phật tánh mà thôi. Chúng ta đều đã biết thế nhưng vẫn thường dễ dãi với mình để ngày tháng trôi qua trong vô ích. Chỉ lỡ vài nhịp thở mong manh thôi là chúng ta không còn khả năng „Thời thời cần phất thức. Vật sử nhạ trần ai“ như lời khuyên của Ngài Thần Tú nói chi đến gạn sạch vô minh mà nhận ra „Bản lai vô nhất vật. Hà xứ nhạ trần ai! Như Ngài Lục Tổ Huệ Năng (chơn như Phật tánh vốn sáng suốt, không cần phải gọt rửa).

Từ chị, tôi được biết thêm rằng Bồ Tát Quán Thế Âm là một Cổ Phật. Tuy Ngài đã thành Phật từ xa xưa nhưng bây giờ và mãi mãi hiện thân Bồ Tát để lắng nghe tiếng kêu thương của chúng sanh. Nơi nào có tiếng kêu thương, nơi đó có hóa thân của Ngài thị hiện, tình thương Ngài dành cho chúng sanh như người mẹ hiền thương đàn con dại. Chị có một quan niệm rất đặc biệt, hơn một lần, tôi ngơ ngác trước tâm linh và kiến thức của chị khi chị say sưa giảng giải:

„Bồ Tát Quán Thế Âm phát nguyện độ chúng sanh. Lúc nào Ngài cũng là người ban cho, chúng ta là kẻ thọ nhận năng lượng của Ngài như ánh trăng thu vằng vặc chiếu sáng một bầu không gian rộng lớn bao la, chúng ta là mặt nước ao, hồ, sông, biển. Chừng nào mặt nước bình lặng, chừng ấy năng lượng của ánh sáng được phản chiếu cao nhất“.

Chị còn giảng thêm rằng:

„Chúng ta đã từng nhận sự gia hộ của Bồ Tát Quán Thế Âm để sống và tu, nhưng không thế nào mãi thọ nhận. Chúng ta phải là một cánh tay, một con mắt của Ngài để cùng Ngài hóa độ và cứu giúp chúng sanh, trước là đền đáp ân đức cao dày của Ngài, sau là kết thiện duyên với tất cả chúng sanh. Dù chưa phải là Phật, là Bồ Tát nhưng phát nguyện đem thân này, lời nói này và sự suy nghĩ này làm hóa thân của Bồ Tát để cứu giúp chúng sanh“.

Chị là thế đấy! Cuộc đời như dòng sông trôi mãi trôi mãi. Trên dòng sông ấy, có những bãi cát dài thầm lặng nằm dọc hai bên bờ, có những tảng đá khổng lồ dám ngăn dòng nước tạo nên thác ghềnh thơ mộng, có những viên sỏi dễ thương chìm trong đáy nước long lanh màu trời, có những chiếc lá lênh đênh thong thả xuôi dòng nhưng cũng có những chiếc thuyền nhẹ nhàng ngày ngày đưa khách sang sông. Chị và tôi như hai nhân tố hiện hữu trong cuộc đời này nhưng con đường chị đi tràn đầy ý nghĩa hơn tôi nhiều.

Bên chị, tôi đã học hỏi được rất nhiều điều về quan niệm cuộc sống. Những lúc buồn phiền vì những điều không vừa ý, tôi nhớ đến chị thường hay mượn lời của Helen Keller, một nhà văn Pháp, khuyên tôi nên suy ngẫm thế nào là hạnh phúc:

J’ai pleuré parce que je n’avais pas de souliers jusqu’au jour où j’ai vue quelqu’un, qui n’avait pas de pieds“.

Xin tạm dịch:

Tôi đã khóc vì không có giày để mang, cho đến một ngày tôi nhìn thấy một người không có chân” !

 

Tôi đã nhận được thư chị, sau khi nhờ bạn bè chuyển về biếu chị một ít tiền. Chị đã viết: “Rất cảm động khi ở nơi thâm sơn cùng cốc này mà vẫn còn có người nhớ đến mình. Mình ở đây thân tâm an lạc”. Tuy vậy, khi đọc đến hàng chữ “Mình bây giờ là Thuần Tánh đấy nhé, Xuân Viên là dĩ vãng rồi!” mà bâng khuâng cả tấc lòng!

 

Cô Thuần Tánh ơi!

Cô đã chọn con đường giải thoát để mà đi, bỏ lại đằng sau tất cả ưu tư phiền muộn của cuộc đời. Cô đã thắp sáng cho mình một miềm tin, một ngọn lửa  tin yêu thuần khiết như phiến gỗ nâu chắc để mãi mãi lớp than hồng vẫn còn bùng cháy đủ sưởi ấm Cô trong những ngày khoác áo nâu sồng nương thân nơi cửa Phật.

Từ nơi xa xôi này, xin gởi đến Cô lòng mến phục vô biên và niềm thương yêu trìu mến của một người em, một người bạn đã từng chia xẻ ngọt bùi cùng Cô dưới mái trường SNA thân yêu ngày nào.

 

● Nguyên Hạnh HTD

(Mùa Vía Đức Phật Quán Thế Âm)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/04/2013(Xem: 19828)
Ngày xửa, ngày xưa, có một cô công chúa Út con gái yêu của hoàng đế La Mã - một ông hoàng giàu sang độc tài và rất hung bạo.
08/04/2013(Xem: 13483)
Hằng năm cứ mỗi độ cuối đông, toàn thể Phật giáo đồ trên khắp năm châu bốn bể, đều long trọng tổ chức lễ kỷ niệm ngày Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thành đạo (vào ngày mùng tám tháng mười hai âm lịch).
08/04/2013(Xem: 13927)
Cách đây hơn hai mươi lăm thế kỷ, vào ngày trăng tròn tháng tư âm lịch, tại miền trung nước Ấn Độ, Bồ tát Hộ Minh đã giáng trần, qua hiện thân thái tử Sĩ - Đạt – Ta, con của vua Tịnh Phạn và hoàng hậu Maya. Ngài đã vì lòng từ bi, . . .
08/04/2013(Xem: 10445)
Nhân sinh nhật lần thứ 57 (kể theo tuổi ta) của tôi năm nay (28.6.2005) có một Phật Tử Việt Nam tại New York, Mỹ Quốc, gởi tặng cho tôi một bộ kinh Kim Cang rất quý, có xuất xứ từ đời nhà Thanh (Trung Hoa) và chính do vua Khang Hi (1666-1722) viết, được phục chế lại. Quả là một món quà vô giá.
08/04/2013(Xem: 11336)
Hương bối ngàn xưa gió thoảng về mái chèo Thập Ðộ vượt sông mê Gương soi vằng vặc, Tâm Bồ tát Thánh Hạnh, trăng sao rạng bốn bề!
08/04/2013(Xem: 16481)
Thuở xa xưa có một chàng trai con của một vị Bà la môn (giai cấp "tu sĩ" cao nhất ở Ấn Độ) sống dưới triều đại vua Pasenadi (Ba Tư Nặc), kinh thành Xá Vệ, thuộc vương quốc Kosala (Kiều Tát La). Tên của chàng là Ahimsaka (người thất bại). Chàng được gởi đến thành phố Taxila để học hành.
08/04/2013(Xem: 14021)
Trong cuốn Xứ Trầm Hương, nhà thơ Quách Tấn khi viết về chùa chiền ở Khánh Hòa đã có những nhận xét là Khánh Hòa có lẽ là tỉnh nhiều chùa hơn tất cả các tỉnh Miền Nam Trung Việt và chùa có mặt hầu hết trên khắp xã phường trong tỉnh. Các tổ khai sơn đều là người Việt, phần nhiều có sự nghiệp để lại cho đời.
08/04/2013(Xem: 15479)
Toàn thể câu chuyện, cũng như mỗi tình tiết nhỏ nêu ra đều được nung nấu trong mối tư lường của một thánh tính đạt tới cõi lô hỏa thuần thanh, siêu thần nhập hóa. Không thể nào nói đó là bút pháp tài tình, kỹ thuật điêu luyện,chỉ có thể nói rằng đó là một cuộc kết tinh huyền nhiệm của lịch sử Đông phương giữa một triều sóng rộng dâng lên cùng với bao nhiêu ngọn gió ở bốn chân trời lổ đổ thổi lạ
08/04/2013(Xem: 13942)
Nếu có chánh niệm, đem những khổ đau, luân lạc và gian truân của mình ra đọc truyện Kiều chúng ta có cơ hội thấy được bản thân. Và như vậy đọc truyện Kiều cũng là tu. Tu tức là nhìn tất cả những gì đã và đang xảy ra trong đời mình bằng con mắt quán chiếu.
08/04/2013(Xem: 13357)
Tenzin Palmo đã sống một mình và tu tập trong động tuyết này. Cô đã chạm trán với những thú rừng hoang dã, đã vượt qua những cơn lạnh khủng khiếp, những cái đói giết người, và những trận bão tuyết kinh hồn....
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]