Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đức Phật và cây cỏ.

28/06/201318:03(Xem: 4944)
Đức Phật và cây cỏ.

Đức Phật và cây cỏ

TN Chân Giải Nghiêm

Đọc về cuộc đời Đức Phật, chúng ta không thể không để ý đến tầm quan trọng của cỏ cây trong cuộc sống Ngài. Hầu hết chúng ta đều chỉ nghe đến cội Bồ Đề Ngài ngồi toạ thiền và thành Đạo, tuy nhiên, còn nhiều cây khác nữa.

Xã hội Đức Phật sinh ra dường như rất quan tâm và quý trọng cây cối.

Liên hệ giữa con người và Thiên Nhiên thấm nhuần cả nền văn hoá, vì ai cũng thấy rõ rằng mình hoàn toàn lệ thuộc vào môi trường. Ở Ấn Độ cũng như các nước theo đạo đa thần thời đó, các vị Thần là chân dung của các sức mạnh Thiên Nhiên.

Không còn gì để nghi ngờ sự kiện Đức Cồ Đàm (Gautama) là một nhân vật có thật trong lịch sử, tuy nhiên, truyền thuyết về Ngài được kể đến hôm nay cho thấy có nhiều yếu tố cổ đại đã len lỏi vào câu chuyện. Chúng ta có thể nhận ra câu chuyện của Người Cây (Green Man), sinh ra từ Nữ Thần Đất. Là sự biểu hiện của Thiên Nhiên, Người Cây sống hài hoà với thiên nhiên, ý thức bảo vệ màu xanh của thiên nhiên. Sự ra hoa của Người Cây nuôi dưỡng vạn loài.

Đây là khía cạnh làm hấp dẫn thêm câu chuyện về cuộc đời của bậc đạo sư khai sáng một tôn giáo có thể được gọi là từ bi nhất trong các tôn giáo lớn trên thế giới.

Đản Sinh trong Rừng Sal (Sa-La)

Đức Bồ Tát đản sinh ở rừng Lumbini, ngoại thành Kapilavatthu, tại xứ Nepal ngày nay. Ở đây rừng mọc chủ yếu là loại cây Sal, có tên khoa học là Shorea robusta. (Đây là một loại cây phổ biến ở chân Hy Mã Lạp Sơn, được dùng để làm nhà và các vật dụng cần thiết của dân địa phương.)

Thân mẫu của Ngài, Hoàng Hậu Maya, khi ấy đang cùng với đoàn tùy tùng đi về nhà cha mẹ để sinh con. Bà lại nghỉ dưới gốc một cây Sal, cây liền nghiêng nhánh xuống cho bà vịn. Hoàng Hậu vừa vin cây thì cậu bé Siddharta ra đời. Truyền thuyết kể rằng “Cậu bé đi bảy bước về bốn hướng, và hoa sen nở ra dưới mỗi bước chân cậu. Cậu bé nói: ‘Ta không còn phải thọ sinh nữa, vì đây là thân chót của ta.’”

315ducphatvacayco-HoaSal

Hoa Sal (Shorea robusta)

Phật giáoViệt Namthời kỳ sơ khởi, theo GS Lê Mạnh Thát, có thể gọi là thời kỳ Phật giáo Pháp Vân (đầu Công Nguyên,) xây dựng quanh truyền thuyết Man Nương sinh con vào ngày mồng 8 tháng 4, gởi con trong bọng cây Dâu. Sau này cây được tạc thành tượng Phật rất linh thiêng gọi là Bụt Pháp Vân. Lễ rước tượng Bụt Pháp Vân hằng năm vẫn còn tiếp tục đến bây giờ. (Chi tiết thú vị là đứa con Man Nương hạ sinh là bé gái. Một dấu ấn của xã hội mẫu hệ?) Thời kỳ Phật giáo Pháp Vân cũng chính là thời kỳ yếu tố ảnh tượng đang phát triển trong Phật giáo Ấn Độ. -- Trước đây người ta chỉ dùng hoa sen, lá Bồ Đề để biểu trưng cho Phật, đến thế kỷ thứ nhất tượng Phật mới ra đời. -- Phải chăng đây cũng chính là thời kỳ các yếu tố truyền thuyết cổ đại của Ấn Độ (như chuyện Người Cây) đang bắt đầu len lỏi đi vào câu chuyện Đản Sinh? Câu chuyện Man Nương là dấu tích của sự hoà lẫn của đạo Phật với các yếu tố văn hoá của người Ấn và người Việt cổ.315ducphatvacayco-hoaAsoka

Có người gọi cây mà đức Phật Đản sinh là cây Asokha hay Simsapa tức cây Vô Ưu không biết có phải vì vua A Dục (Asokha) đã trồng cây này ở nơi đức Phật Đản sinh hay không? Khi tra cứu, chúng tôi thấy cây Asokha hay Asoka – Vô Ưu -- tên khoa học là Saraca indica, không xa lạ gì, chính là cây bông trang.

hoa Asoka (bông trang)

Nhập Niết Bàn trong rừng cây Sal

Đức Phật đã chọn nằm xuống giữa hai cây Sal để nhập diệt. Truyền thuyết kể rằng tuy lúc đó là ngày thứ 15 của tháng trăng tròn thứ Sáu theo lịch Ấn Độ, hay tháng Visakha (khoảng giữa tháng Năm Dương Lịch hay rằm tháng Tư Âm Lịch – theo Nam Tông) nhưng cây sal nở rộ hoa khi Ngài nhập diệt. Đây dĩ nhiên có phần biểu tượng (ẩn dụ), nhưng một lần nữa cũng cho thấy mối liên hệ kỳ diệu của Ngài với những cây Sa-La này. Thường cây Sal nở hoa vào đầu mùa Xuân (tháng 3-4.) Lễ hội Sarhu hay Hội Hoa Sa-La vẫn còn được nhiều sắc dân cao nguyên Chotanagpur tổ chức hằng năm.

Chúng ta biết rằng các nước Phật giáo Nam Truyền kỷ niệm ngày Phật Đản, Thành Đạo và Nhập Niết Bàn đều vào ngày rằm tháng Vesakha (khoảng giữa tháng 5 Dương Lịch.) Ngày lễ ấy gọi là Vesak, lấy từ tên của tháng Vesakha này. Các nước Phật giáo Bắc truyền thì kỷ niệm Phật Đản vào ngày Rằm tháng 4, Phật Thành Đạo vào ngày Rằm tháng Chạp và Phật Nhập Niết Bàn vào ngày Rằm Tháng 2 Âm Lịch. Nam Tông lấy ngày Rằm tháng Sáu, ngày Đức Phật Chuyển Pháp Luân tại Lộc Uyển, làm ngày bắt đầu An Cư Kết Hạ, trong khi Bắc Tông lại chọn ngày Rằm tháng Tư làm ngày bắt đầu mùa An Cư. Sự khác biệt của các ngày Vía và ngày An Cư phải chăng một phần đến từ sự khác biệt của thời tiết và mùa màng địa phương? Các nước Phật giáo thời bấy giờ đều là xã hội nông nghiệp, sử dụng lịch tính theo tuần trăng. Khi đạo Phật truyền sang Tây Phương, thì chư tăng các nước này lại có khuynh hướng chọn mùa Đông làm mùa An Cư, bởi vì đó chính là lúc thời tiết khắc nghiệt nhất, bất tiện cho việc du hành.

Cậu bé Siddharta bảy tuổi ngồi thiền dưới cây Jambolan

Một hôm, theo truyền thống hoàng gia, nhà vua phải thực hiện lễ cày đất ở ngoại thành Kapilavtthu. Siddharta được đi theo cha. Cậu bé ngồi nhìn diễn tiến buổi Lễ dưới một gốc cây mà trong Patåhamasambodhi nói là cây Jambupikkha, hay còn gọi là cây Jambolan hay Kala Jam(cây Hồng Quân?)

Câu chuyện được diễn tả một cách thi vị: Cây “được phú những nhánh sum suê như rặng núi Indanil với tàng toả rộng một khoảng im mát... Trái tim trong sáng của hoàng tử, được phú một khả năng thành Phật trong tương lai, đã chuyển sang trạng thái tĩnh lặng và đi vào Định (samadhi) một cách tự nhiên, đó là trạng thái Sơ Thiền (jhana.)315ducphatvacayco-Jambolan

Vào xế trưa, khi lễ cày đất đã hoàn mãn, thị vệ chạy đi tìm hoàng tử, họ đã nhìn thấy bóng cây Jambolan mà hoàng tử ngồi bên dưới vẫn còn dừng lại ở vị trí của lúc chính Ngọ chứ không dịch đi theo sự chuyển vận của mặt trời.”

Cây Jambolan (Syzygium jambolanum,Hồng Quân?)

Bảy tuần lễ ở làng Uruvela (nay là Bồ Đề Đạo Tràng – Bodhgaya)

Theo Nam Tông, Bụt thành đạo dưới cây Bồ Đề tại Uruvela vào ngày Vaisakha Poornima, ngày trăng tròn trong khoảng tháng Tư - Năm Dương Lịch. Truyền thuyết kể rằng sau khi thành Đạo, Ngài đã ở lại làng Uruvela (khu vực Bồ Đề Đạo Tràng) 7 tuần để hành thiền và điều phục các căn. Trong thời gian đó, Ngài đã ngồi dưới cây Bồ Đề và một vài cây khác. Các văn kiện ghi chép về thời gian bảy tuần này không thống nhất các chi tiết như thời điểm v.v.., nhưng chúng ta hãy thử ghi lại ở đây những điểm cốt yếu. Chúng ta cũng nên nhớ rằng bảy tuần lễ có thể là một biểu tượng (ẩn dụ) hay một phương tiện để trình bày giáo lý hơn là một câu chuyện lịch sử có thật.

Tuần thứ nhất

Trong tuần đầu, Đức Phật ngồi dưới cây Bồ Đề (Ficus religiosa)và giác ngộ ở đây. Trước khi thành Đạo, Ngài đã nhận bát đề hồ (kheer) từ cô gái chăn cừu Sujata. Cũng tại đây, Ngài đã chiến đấu với Mara, chúa tể của sự Chết và Dục Vọng (thèm khát.) Thách thức cuối cùng của Mara là nghi ngờ về lời tuyên bố giác ngộ của Ngài. Đức Phật đã gọi Bà Mẹ Đất đến chứng minh cho sự thực ấy. Nữ Thần Đất đã hiện lên, và giúp Ngài quét sạch đội quân Ma.

Nơi Đức Phật ngồi, dưới cội Bồ Đề, được gọi là “Toà Chánh Giác.” Vua A Dục, một Phật tử sùng Đạo, đã dựng lên một toà Kim Cương (Vijrasana) ở đây, nơi được gọi là “Cái Rốn của Đại Địa.” Cành giâm của con cháu cây Bồ Đề nguyên thỉ đã được trồng gần đó.

Đức Phật thành Đạo khi trời vừa hửng sáng. Người ta nói rằng khi đó chư thiên trổi nhạc, múa hát để mừng Ngài.

Tuần thứ hai

Nhiều nơi kể rằng đức Phật ngồi dưới cây Banyan (Ficus benghalensis.) Ngài lại chạm trán Mara qua ba người con gái của y, với tên gọi: Tanha (Ái Dục), Arati (Bất Mãn) và Raga (Tham Vọng.)

Không một cám dỗ nào có thể làm dao động thiền định của Ngài.

Cây Banyan mà Ngài ngồi còn được biết với tên ‘ajapalanigrodha’, ‘ajapala’có nghĩa là ‘chỗ của những người chăn dê’‘nigrodha’có nghĩa là ‘câyBanyna.’ Theo truyền thuyết, cây đa này là nơi những người chăn dê trong vùng thường ngồi nghỉ trong khi thả cho bầy dê ăn cỏ. Cây banyan theo hình dạng và cách đâm rễ (thòng xuống từ thân) có lẽ chính là cây đa.

Lá và quả Banyan

Có những nơi khác kể rằng Đức Phật đã đứng nhìn cây Bồ Đề không chớp mắt trong tuần thứ hai và đi đến cây Banyan sau này.

Cây Banyan (Ficus benghalensis)

Tuần thứ ba

Chúng ta có vài thuyết khác nhau. Có nơi nói Đức Phậtngồi gần hồ Mucalinda trong khi chỗ khác lại nói sự kiện này xảy ra vào tuần thứ 6.

Khi ấy có bão tố sấm sét lớn và mưa tuông xối xả trong suốt bảy ngày liền. Rắn chúa ‘Muchalinda’ từ dưới hồ bò lên quấn quanh thân Đức Phật vài vòng và ngóc đầu lên làm một cái lọng che cho Ngài trong suốt thời gian đó.

‘Cuộc đời Đức Phật qua Hình Ảnh’ trên www.budsir.orggiải thích Mucalinda là một loại cây, nguyên văn như sau:

. “Mucalinda là một loại cây phổ biến ở Ấn Độ, xuất hiện nhiều trong văn chương Ấn như các tác phẩm Jatakas và nhiều tác phẩm khác. Trong Vessantara Jataka, mucalinda là cây mà Bồ Tát thường lui tới khi bị đày trong rừng.”

. “Cây mucalinda ở Thái Lan gọi là cây ‘jik.’ Có vẻ đúng, vì hai cây đều mọc ở những chỗ ẩm như bờ sông, gần bờ hồ, cả hai đều có màu trắng và đỏ. Lá cây lớn như lá cây gioi (rose-apple, miền Trung gọi là cây đào, miền Nam gọi là cây mận.) Lá non có vị the, ngon thường dùng như một loại rau sống chấm với tương ớt. Vị cũng giống như vị lá cây gioi (rose-apple.) Cây thường có lá dày cho nhiều bóng mát.”

Chưa có dịp thấy cây jik của Thái Lan, chúng tôi không biết cây ‘jik’ có phải là cây Lý hay không? Mucalinda như vậy có lẽ là một giống mận Ấn Độ.

Người ta bảo con rắn quấn quanh Đức Phật bảy vòng. Trong một số hình, con rắn này có bảy đầu. Rắn thường không phải là một hình tượng được ưa chuộng, nhưng rắn là một biểu tượng cổ về nội lực -- sức sống có chiều sâu và sự phong phú. Những loài tử tế từ đáy hồ đi đến thường là biểu tượng của sự hoà điệu tuyệt hảo hay trực giác.

Những con rắn thần thoại từ ngàn xưa vốn thường đi kèm với cây. Không chỉ như một tiếng nói cám dỗ trong trường hợp con Rắn vườn Địa Đàng, mà thường là bạn của cây.

Cây và Rắn là những loài có những phẩm chất đóng vai trò hoạch định ‘tình trạng của thế giới’ và sự lưu chuyển năng lượng của thế giới.

Đức Phật đã an trú trong Đại Định, không dao động trước bão tố, sự rung chuyển từ bên trong hay bên ngoài.

Hình ảnh Đức Phật được bảo hộ bởi con rắn cũng là một bài học gián tiếp về lợi ích của sự phát triển lòng từ bi.

Tuần thứ tư

Đức Phật ngồi thiền dưới cây Rajayatana quán Lý Nhân Duyên. (Có nguồn nói Ngài ngồi dưới gốc cây này trong tuần thứ bảy.) Trong khi an trú trong Định, người Ngài toả ra sáu lằn ánh sáng xanh, vàng, đỏ, trắng, cam và tổng hợp của các màu này. Lá cờ Phật giáo quốc tế được thiết kế dựa theo những màu này.

Hai thương gia từ Miến Điện đi xe ngang qua đó, nghe về Ngài bèn đến cúng dường thực phẩm nhưng Ngài không có bát để nhận. Tứ Thiên Vương -- bốn vị trời hộ thế -- đã mang bát đến cúng dường Ngài. Bụt nhận bốn cái bát và chú nguyện cho chúng biến thành một. Hai thương gia này đã trở thành hai đệ tử tại gia đầu tiên của Bụt.

Cây Rajayatana (tiếng Thái là Mai Ket) có tên khoa học là Buchanania latifolia – Anacardiaceae -- thuộc họ Điều Lộn Hột:

“Cây cao trung bình, mọc ở Ấn Độ, Myanmar, Laos, Thailand, Việt Nam, Yunna. Quả màu đen, có một hạt hình dạng trái lê, dài 1cm, nhiều dầu, ăn được, giống vị hạt hạnh nhân và pistachio (hồ trăn) – thỉnh thoảng nhập vào châu Âu gọi là ‘almondettes’, ăn sống hay rang lên, hoặc bỏ trong mứt, được giã ra làm bánh ở Ấn Độ, hạt được làm dầu thế cho dầu almond hay olive; vỏ cây và trái dùng làm véc ni (sơn dầu); vỏ cây cũng dùng để làm thuộc da; chất gôm (chảy từ cây) là dược liệu cổ truyền để trị bệnh phong hủi, phỏng, bệnh tả, bí tiểu, sốt nhiệt, sưng lợi, lao phổi; gỗ dùng làm củi, cây được trồng để chống sự xói mòn. Nhân có 51.8% dầu, 12.1% đạm, 21.6% tinh bột, 5% đường. (Theo dữ liệu của UN-FAO (Tổ chức Lương Thực và Nông Nghiệp của Liên Hiệp Quốc.))

Chúng tôi tham khảo thêm các tự điển thực vật về cây Buchanania latifoliavà thấy trái cây này khi còn non có màu xanh. Theo những mô tả này thì cây Rajayatana có thể là cây dầu lai, vốn có trái nhỏ màu xanh khi còn non, đến khi già thì đổi sang màu đen. Ở Huế - Việt Nam, hạt dầu lai thường dùng để thế dầu ăn.

Có những nguồn khác, nói cây Rajayatana còn gọi là Kiripalu, với cùng tên khoa học là Buchanania latifolia(ở Bồ Đề Đạo Tràng có di tích cây Rajayatana này.) Chúng tôi tra cứu và chỉ thấy có cây Kripalu mà thôi, cây Kripalu tức là cây kè. Như vậy thuyết đồng nhất cây Kiripalu với cây Buchanania latifoliacó thể đã không đúng.

Tuần thứ năm

Đức Phật trở lại cây Banyan (Ficus benghalensis -- Hồng Quân?.)

“Ngài quán chân đế mà Ngài đã chứng ngộ. Nhận thấy chân lý này thật thâm diệu, Ngài không muốn dạy vì không biết có ai có khả năng hiểu được giáo pháp này hay không. Một phần trong Ngài có khuynh hướng bằng lòng (với sự giác ngộ của mình) và không muốn nhọc công giáo hoá.”

Vua Trời Phạm Thiên Sahampati biết được tư tưởng đó rất lo lắng, than lớn ba lần: “Thế gian mất mát lớn.” Pathamsambodhi viết rằng: “Âm thanh đó vang khắp vạn thế giới. Phạm Thiên Sahampati cùng với chư thiên đồng đến thỉnh Bụt giảng dạy Chánh Pháp.” Trời Phạm Thiên có thể là lòng từ bi của đức Thế Tôn, không nỡ bỏ chúng sinh.

Một trong những lời rất đẹp mà Đức Phật đã dạy là: một người trở nên cao quý hay thấp kém là do ba nghiệp của họ, chứ không phải do nơi chốn mà họ sinh vào. Đây là một lời khẳng định cấp tiến trong một xã hội quá khắt khe trong vấn đề giai cấp.

Tuần thứ sáu và bảy

Từ tuần thứ sáu cho đến tuần thứ tám sau khi thành Đạo, Đức Phật đã qua lại giữa cây Đại Giác (Bồ Đề) và cây Đa Mục Đồng (banyan.)

Có vài nơi nói rằng Ngài đã ngồi dưới cây Muchalinda trong tuần thứ sáu và dưới cây Rajayata trong tuần thứ bảy (xem lại tuần thứ ba và thứ tư.)

Bụt bắt đầu quán xem Ngài phải giảng dạy Chánh Pháp như thế nào, và Ngài quyết định bắt đầu từ năm người bạn đồng tu khổ hạnh ngày xưa.

Những cây cỏ khác

Trong suốt bốn mươi lăm năm hoằng hoá suốt lưu vực sông Hằng (Ganges) và vùng chân núi Hy Mã Lạp Sơn, Đức Phật đã sống rất nhiều trong rừng. Cây thường được nhắc đến trong Kinh điển.

Dường như những cái cây này đã được trân quý, công nhận sự có mặt. Chúng ta có thể kể thêm một số cây sau:

. Tu viện Phật giáo đầu tiên là khu rừng Tre, do vua Bimbisara cúng dường.

. Tăng đoàn thường an cư trong rừng, chẳng hạn khu rừng Xoài của y sĩ Jivaka.

. Và, bao nhiêu cây khác cung cấp thực phẩm và dược liệu cho Bụt và các vị khất sĩ theo Ngài.

Chúng ta cũng nhớ đến bó cỏ kusa Bụt dùng để trải toạ cụ ngồi trước khi thành Đạo. Cỏ kusa (hay kusha) còn có tên là Durba (Darbha) hay halfa, tên khoa học là Eragrostis cynosuroideshay còn gọi là Desmostachya bipinnata,có thể cao từ đến 50-100cm, thường được dùng để dệt chiếu. (Tự điển Phật Học của Trần Nguyên Trung gọi là Kosa S) hay Kosajja (P) có thể không đúng vì Kosajja có nghĩa là dãi đãi.) Cỏ kusa tên Việt Nam có lẽ là cỏ cói (dùng vì cả hai đều có mùi thơm như sả, chiều cao và công dụng cũng tương đương.

Còn bao nhiêu cây khác cũng gắn bó cuộc đời Đức Phật đã theo các thương nhân và tu sĩ Ấn Độ du nhập vào nước ta khoảng đầu thế kỷ thứ 2 như cây bông sen, cây hoa lài, cây mít. Theo GS Trần Quốc Vượng, cây bông sen (Nelumbo nucifera, họ Nelumbonaceae)là phiên âm từ tên tiếng Phạn sengora (người Nhật gọi bông sen là sengo); cây hoa lài (ban đầu gọi là m-lai) là từ tên malika (Tàu gọi là Mạt Lị Hoa); cây mít là từ tên paramita (Tàu gọi mít là trái Ba La Mật.) Tên phiên âm của các cây này đã được Việt hoá, trở nên gần gũi thân thương, khiến chúng ta gần như không còn nhớ đến xuất xứ của chúng.

Đạo Phật đã thấm vào nếp sống của Việt Nam, tạo nên một nền văn hoá nhân hậu, phóng khoáng, có tình với cỏ cây. Một bà cụ ra vườn thấy cành cây gãy cũng xuýt xoa. Liệu rằng với đà phát triển kinh tế toàn cầu, con người sống gần lại với nhau trong một cộng đồng thế giới, chúng ta có còn nhớ đến bài học mà ông cha chúng ta đã trao truyền lại qua các tích xưa và nếp sống hằng ngày? Chúng ta có còn thì giờ để gần gũi, thương yêu và kính trọng cỏ cây hay không? Tiêu thụ ít lại, sống giản dị hơn để con cháu chúng ta và các loài khác còn sinh môi để sống. Bà mẹ thiên nhiên đã lên tiếng nhắc nhở chúng ta rồi.

Tài Liệu Tham Khảo:

  1. Phần lớn tài liệu được lấy và dịch từ‘Buddha and Trees’ của Anna trên trang www.the-tree.org.uk
  2. An illustrated Life of the Buddha trong trangwww.budsir.org
  3. Lịch sử Phật Giáo Việt Nam I của Lê Mạnh Thát
  4. ‘Cây cối trong cuộc đời Đức Phật’ của Võ Quang Yến
  5. Họ ‘Caesalpiniaceae ‘ của Dr. Gerald (Gerry) Carr trong www.botany.hawaii.edu
  6. tự điển Pali-English của A.P. Buddhatta Mahathera
  7. ‘Trong Cõi’ của Trần Quốc Vượng, NXB Văn Nghệ
  8. và các hình ảnh, tài liệu, tự điển về thực vật, thắng tích khác

----o0o---

Nguồn: Thư Viện Diệu Không

Trình bày: Anna

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/02/2022(Xem: 6909)
Hai năm trước, khi tin Hòa Thượng Thích Minh Tâm viên tịch lan truyền khắp năm châu, ai ai cũng ngỡ ngàng thương tiếc. Hầu như các tự viện trên thế giới đều tổ chức lễ tưởng niệm tri ân Ngài. Tu Viện Quảng Đức cũng không ngoại lệ, buổi lễ truy niệm đã được tổ chức một cách trang nghiêm, trọng thể. Sau đó TT Thích Nguyên Tạng đã lên chương trình Hành Hương Âu Châu vào cuối tháng 7 năm 2015, với mục đích chính là tham dự lễ Đại Tường Tưởng Niệm HT Thích Minh Tâm, đồng thời dự lễ Khánh thành Chùa Khánh Anh. Phật tử TVQĐ thật hoan hỷ với tin này và đã cùng nhau lập ra kế hoạch tiết kiệm để tham dự chuyến Hành Hương Âu Châu.Thời gian hai năm tưởng là lâu, nhưng thoắt một cái ngày đi đã gần kề, mọi người nô nức chuẩn bị hành trang để lên đường. Phái đoàn Hành Hương có 83 người gồm:Melbourne: 38 người; Sydney: 21 người; Perth: 9 người;Adelaide: 5 người.
07/02/2022(Xem: 17646)
Kính đa tạ Thầy đã giới thiệu 14 lời vàng của HT Thích Trí Tịnh (1916-2014 ) một Bồ Tát thị hiện đã mang kho tàng kinh các đến với Phật Tử VN trong và ngoài nước nhưng cuối cùng di chúc để lại cho đời chỉ vỏn vẹn 14 lời vàng này lại là Kim Chỉ Nam cho những ai muốn tu tập giải thoát ( LÀM LÀNH-LÁNH DỮ-THƯƠNG NGƯỜI- THƯƠNG VẬT-ĂN CHAY-NIỆM PHẬT -TỤNG KINH ) và Bộ Toàn tập Kinh Hoa Nghiêm 4 quyển cũng như Ngũ Kinh Tịnh Độ mà Ngài đã thọ trì hằng ngày từ A lại da thức khởi phát.
24/01/2022(Xem: 5192)
Tuyển tập Hành Hương Tứ Đại Danh Sơn Trung Quốc 2007 do Tu Viện Quảng Đức tổ chức
19/01/2022(Xem: 5430)
Dân tộc Việt Nam học và hành theo giáo lý Phật thuyết trên dưới hai nghìn năm trước khi Pháp sư Huyền Trang quy Phật cũng trên sáu thế kỷ, tuy vậy cho đến nay chúng đệ tử Phật, xuất gia cũng như tại gia, biết đến công hạnh của Ngài rất ít, và cũng biết rất ít di sản Kinh Luận của Ngài cho Phật tử Việt nam học và hiểu giáo pháp của Đức Thế Tôn một cách chân chính để hành trì chân chính. Bản dịch Đại Đường Tây vực ký của Hòa Thượng Như Điển với sự đóng góp của Cư sĩ Nguyễn Minh Tiến bổ túc cho sự thiếu sót này. Từ những hiểu biết để thán phục, kính ngưỡng một Con Người vĩ đại, hãn hữu, trong lịch sử văn minh tiến bộ của nhân loại, một vị Cao Tăng thạc đức, với nghị lực phi thường, tín tâm bất hoại nơi giáo lý giải thoát, một thân đơn độc quyết vượt qua sa mạc nóng cháy mênh mông để tìm đến tận nguồn suối Thánh ngôn rồi thỉnh về cho dân tộc mình cùng thừa hưởng nguồn pháp lạc. Không chỉ cho dân tộc mình mà cho tất cả những ai mong cầu giải thoát chân chính.
04/01/2022(Xem: 6153)
Không hiểu sao mỗi khi nhớ về những sự kiện của năm 1963 lòng con bổng chùng lại, bồi hồi xúc động về quá khứ những năm đen tối xảy đến gia đình con và một niềm cảm xúc khó tả dâng lên...nhất là với giọng đọc của Thầy khi trình bày sơ lược tiểu sử Đức Ngài HT Thích Trí Quang ( một sưu tầm tài liệu tuyệt vời của Giảng Sư dựa trên “ Trí Quang tự truyện “ đã được đọc tại chùa Pháp Bảo ngày 12/11/2019 nhân buổi lễ tưởng niệm sự ra đi của bậc đại danh tăng HT Thích Trí Quang và khi online cho đến nay đã có hơn 45000 lượt xem). Và trước khi trình pháp lại những gì đã đươc nghe và đi sâu vào chi tiết bài giới thiệu Bộ Pháp Ảnh Lục cùng lời cáo bạch của chính Đức Ngài HT Thích Trí Quang về bộ sách này, kính trich đoạn vài dòng trong tiểu sử sơ lược của HT Thích Trí Quang do Thầy soạn thảo mà con tâm đắc nhất về;
04/01/2022(Xem: 5068)
Trên đất nước ta, rừng núi nào cũng có cọp, nhưng không phải vô cớ mà đâu đâu cũng truyền tụng CỌP KHÁNH HÒA, MA BÌNH THUẬN. Tỉnh Bình Thuận có nhiều ma hay không thì không rõ, nhưng tại tỉnh Khánh Hòa, xưa kia cọp rất nhiều. Điều đó, người xưa, nay đều có ghi chép lại. Trong sách Hoàng Việt Nhất Thống Dư Địa Chí (1) của Thượng Thư Bộ Binh Lê Quang Định soạn xong vào năm 1806 và dâng lên vua Gia Long (1802-1820), tổng cộng 10 quyển chép tay, trong đó quyển II, III và IV có tên là Phần Dịch Lộ, chép phần đường trạm, đường chính từ Kinh đô Huế đến các dinh trấn, gồm cả đường bộ lẫn đường thủy. Đoạn đường ghi chép về ĐƯỜNG TRẠM DINH BÌNH HÒA (2) phải qua 11 trạm dịch với đoạn đường bộ đo được 71.506 tầm (gần 132 km)
04/01/2022(Xem: 4086)
Ngoài tên “thường gọi” là Cọp, là Hổ, tiếng Hán Việt là Dần, cọp còn có tên là Khái, là Kễnh, Ba Cụt (cọp ba chân), Ba Ngoe (cọp ba móng), Ông Chằng hay Ông Kẹ, Ông Dài, Ông Thầy (cọp thành tinh). Dựa vào tiếng gầm của cọp, cọp còn có tên gọi là Hầm, là Hùm, dựa vào sắc màu của da là Gấm, là Mun ... Ở Nam Bộ cò gọi cọp là Ông Cả, vì sợ cọp quấy phá, lập miếu thờ, tôn cọp lên hàng Hương Cả là chức cao nhất trong Ban Hội Tề của làng xã Nam Bộ thời xưa. Cọp cũng được con người gọi lệch đi là Ông Ba Mươi. Con số ba mươi này có nhiều cách giải thích: - Cọp sống trung bình trong khoảng ba mươi năm. - Cọp đi ba mươi bước là quên hết mọi thù oán. - Xưa, triều đình đặt giải, ai giết được cọp thì được thưởng ba mươi đồng, một món tiền thưởng khá lớn hồi đó. - Tuy nhiên, cũng có thời, ai bắt, giết cọp phải bị phạt ba mươi roi, vì cho rằng cọp là tướng nhà Trời, sao dám xúc phạm (?). Ngày nay, cọp là loài vật quý hiếm, có trong sách Đỏ, ai giết, bắt loài thú này không những bị phạt tiền mà còn ở
30/12/2021(Xem: 5333)
Tối ngày 11/02 âm lịch (03/03/2012), vào lúc 10 giờ tối, lúc đó tôi niệm Phật ở dưới hai cái thất mà phía trên là phòng của Sư Ông. Khi khóa lễ vừa xong, bỗng nghe (thấy) tiếng của đầu gậy dọng xuống nền phát ra từ phòng của Sư Ông. Lúc đó tôi vội vàng chạy lên, vừa thấy tôi, Ông liền bảo: “Lấy cái đồng hồ để lên đầu giường cho Sư Ông và lấy cái bảng có bài Kệ Niệm Phật xuống” (trong phòng Sư Ông có treo cái bảng bài Kệ Niệm Phật). Khi lấy xuống Sư Ông liền chỉ vào hai câu: Niệm lực được tương tục, đúng nghĩa chấp trì danh, rồi Sư Ông liền chỉ vào mình mà ra hiệu, ý Sư Ông nói đã được đến đây, sau khi ngồi hồi lâu Sư Ông lên giường nghỉ tiếp.
25/12/2021(Xem: 3876)
Cảo San đường Tuệ Nguyên Đại Tông sư (고산당 혜원대종사, 杲山堂 慧元大宗師) sinh ngày 8 tháng 12 năm 1933 tại huyện Ulju, Ulsan, một thành phố nằm ở phía đông nam Hàn Quốc, giáp với biển Nhật Bản. Ngài vốn sinh trưởng trong tộc phả danh gia vọng tộc, phụ thân Họ Ngô (해주오씨, 海州吳氏), Haeju, Bắc Triều Tiên và tộc phả của mẫu thân họ Park (밀양박씨, 密陽朴氏), Miryang, Gyeongsangnam-do, Hàn Quốc. Năm lên 7 tuổi, Ngài được sự giáo huấn của người cha kính yêu tuyệt vời, cụ đã dạy các bộ sách Luận ngữ, Mạnh Tử, Thích Độ, Đại Học, Tứ Thư và học trường tiểu học phổ thông. Vào tháng 3 năm Ất Dậu (1945), khi được 13 tuổi, Bồ đề tâm khai phát để làm tiền đề cho Bát Nhã đơm bông, Ngài đảnh lễ Đại Thiền sư Đông San Tuệ Nhật (동산혜일대선사, 東山慧日大禪師, 1890-1965) cầu xin xuất gia tu học Phật pháp. Thật là “Đàm hoa nhất hiện” khi những sợi tóc não phiền rơi rụng theo từng nhát kéo đong đưa. Tháng 3 năm 1948, Ngài được Hòa thượng Bản sư truyền thụ giới Sa di tại Tổ đình Phạm Ngư Tự (범어사, 梵魚寺), Geumjeong-gu, Busan, Hàn Qu
23/12/2021(Xem: 3001)
Chánh Điện của một ngôi Chùa tại xứ Đức, cách đây hơn 40 năm về trước; nơi có ghi hai câu đối: "Viên thành đạo nghiệp Tây Âu quốc. Giác ngộ chúng sanh đạo lý truyền", bây giờ lại được trang hoàng thật trang nghiêm và rực rỡ với các loại hoa. Đặc biệt nhất vẫn là những chậu cây Trạng Nguyên nhỏ to đủ kiểu, nổi bật nhất vẫn là những chiếc lá đỏ phía trên phủ lên những chiếc lá xanh bên dưới. Ai đã có ý tưởng mang những cây Nhất Phẩm Hồng, có nguồn gốc ở miền Nam Mexico và Trung Mỹ vào đây? Và theo phong thủy, loại cây này mang đến sự thành công, đỗ đạt và may mắn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567