Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương 15: Vài Kỷ Niệm Lạ Lùng

27/06/201311:42(Xem: 3469)
Chương 15: Vài Kỷ Niệm Lạ Lùng


CÁC BẬC CHÂN SƯ YOGI ẤN ĐỘ

Nguyễn Hữu Kiệt dịch thuật

--- o0o ---

Vài Kỷ Niệm Lạ Lùng

- Nghe em và con tôi quá đề cao và khâm phục Sri Yukteswar, tôi sẽ đến viếng ông ấy một lần xem sao!

Bác sĩ thú y Narayan Chunder Roy nói với một giọng trịnh thượng, nhưng tôi không tỏ ra bất mãn. Ông ta là một người duy vật hạng nặng. Con trai ông, Santosh, khẩn khoản yêu cầu tôi giúp đỡ cha y, nhưng trường hợp này có vẻ tuyệt vọng.

Qua ngày hôm sau, bác sĩ Roy cùng đi với tôi đến đạo viện Serampore, Sư Phụ bằng lòng tiếp ông ta, cuộc hội kiến ngắn ngủi chỉ là một cơn im lặng kéo dài ở cả đôi bên, sau cùng người khách đứng dậy bỏ về.

-Con đem một người chết tới đây làm gì? Sri Yukteswar hỏi tôi khi cánh cửa vừa đóng lại phía sau lưng bác sĩ.

-Bạch Sư Phụ, bác sĩ Roy vẫn còn sống!

-Nhưng y sắp chết đến nơi rồi!

Lời nói đó làm tôi xúc động:

-Đó là một điều nặng nề cho người con của ông ta. Santosh hy vọng rằng thời gian sẽ đánh tan những ý tưởng duy vật của cha y. Cầu xin Sư Phụ hãy giúp đỡ người này.

-Được, Thầy sẽ làm vừa lòng con; gương mặt Sư Phụ vẫn thản nhiên. Người bác sĩ thú ý này không biết rằng y bị chứng đái đường rất nặng và y sẽ phải nằm liệt giường trong vòng mười lăm ngày. Các bác sĩ phải bó tay và y sẽ từ giã cõi đời trong vòng sáu tuần lễ kể từ ngày hôm nay nhờ sự can thiệp của con nên y sẽ khỏi bệnh vào ngày đó. Nhưng ta đặt một điều kiện: con hãy khuyên y đeo một vật hộ phù chiêm tinh, chắc chắn là y sẽ nhảy dựng lên như ngựa trước khi bịđem giải phẫu!

Sau một lúc im lặng, trong khi đó tôi ngẫm nghĩ nên làm cách nào để thuyết phục vị bác sĩ thú y, Sư Phụ nói tiếp:

-Khi y cảm thấy khá, con hãy khuyên y nên kiêng ăn thịt. Y sẽ không nghe lời khuyên đó và y sẽ chết trong sáu tháng, đúng vào lúc mà y tưởng là đã khỏi bệnh. Sáu tháng phụ trội đó chỉđược ban cho y là do lời cầu xin của con!

Ngày hôm sau, tôi dặn Santosh hãy đăt làm một vật hộ phù tại tiệm kim hoàn, bảy ngày sau đó, vật ấy đã làm xong nhưng bác sĩ Roy từ chối không chịu đeo.

-Tôi cảm thấy sức khỏe dồi dào. Các con đừng nhát tôi với những bùa phép chiêm tinh dịđoan đó.

Bác sĩ vừa nói vừa nhìn tôi cười ngạo nghễ. Tôi thích thú mà nhớ lại rằng Sư Phụ vừa so sánh vị thú y với một con ngựa chứng. Một tuần lễ trôi qua, vị thú y thình lình nhuốm bịnh, nên đành chịu đeo vật hộ phù. Hai tuần sau, viên y sĩ khám bệnh cho y nói vói tôi rằng trường hợp ấy đã tuyệt vọgn và nói thêm nhiều chi tiết về những sự tàn phá trong cơ thể do bệnh đái đường gây ra.

Tôi lắc đầu:

-Sư Phụ tôi nói rằng bác sĩ Roy sẽ bình phục, bịnh này chỉ kéo dài trong vòng một tháng.

Viên y sĩ nhìn tôi với cặp mắt nghi ngờ. Nhưng hai tuần sau, ông ta gặp lại tôi và nói:

-Bác sĩ Roy đã hoàn toàn bình phục! Đây là trường hợp lạ lùng nhất trong đời bác sĩ của tôi. Tôi chưa từng thấy một người nào bịnh đang hấp hối mà tự nhiên lại bình phục một cách đột ngột như vậy. Thầy của anh chắc chắn là một nhà tiên tri và chữa bệnh!

Trong cuộc gặp gỡ với bác sĩ Roy, tôi có nói cho ông ta biết Sri Yukteswar có lời cảnh cáo ông ta không nên ăn thịt. Sau đó tôi không gặp ông ta trong sáu tháng. Một hôm tôi đang đứng trước hành ba nhà tôi, ông ta từ đâu tiến đến và nói:

-Em hãy nói với Thầy em rằng sở dĩ tôi mau lại sức là nhờ ăn rất nhiều thịt. Quan niệm phản khoa học của ông về vấn đề dinh dưỡng không thuyết phục được tôi!

Lúc ấy bác sĩ Roy quả thật là hiện thân của sức khỏe. Nhưng qua ngày hôm sau, Stantosh hốt hoảng chạy đến nhà tôi:

-Cha tôi thình lình ngã lăn ra chết hồi sáng này!

Đó là một trong những kinh nghiệm lạ kỳ nhất của đời tôi trong thời kỳ tôi sống chung với Sư Phụ. Người chữa khỏi bệnh cho viên thú y ngoan cố, không màng để ý đến sự hoài nghi thiển cận của ông ta, và kéo dài đời sống thế gian của ông ta thêm sáu tháng chỉ vì có lời cầu khẩn của tôi. Sri Yukteswar thường tỏ ra có lòng ưu ái vô bờ bến đối với những đệ tử chân thành cầu xin người giúp đỡ với tấm lòng khẩn thiết.

Điều làm tôi hãnh diện là tôi có đặc quyền đem những bạn học của tôi đến gặp Sư Phụ. Phần nhiều các bạn tôi trong những dịp đó đã từ bỏ thái độ hoài nghi của họ về vấn đề tôn giáo, một thái độ thịnh hành lúc đương thời.

Một trong những người bạn đó tên Sasim đã trải qua nhiều dịp nghỉ cuối tuần thích thú tại đạo viện. Sư Phụ có nhiều cảm tình với người thanh niên này và lấy làm buồn về cuộc đời phóng đãng, vô kỷ luật của y.

-Sasi, nếu con không sửa đổi cách sinh hoạt của con, con sẽ bịđau nặng! Sri Yukteswar vừa nói vừa nhìn bạn tôi một cách tuyệt vọng.

- Ta nói có Mukunda làm chứng; con sẽ không còn nói rằng ta không khuyên giải con từ trước.

Sasi cười và nói:

-Bạch Thầy, con xin nhờ Thầy cầu nguyện giùm cho con! Con có nhiều thiện chí nhưng thiếu can đảm. Trên đời này, Thầy là vị cứu tinh của con, con không tin được ai nữa ngoài Thầy ra.

-

Con phải đeo một hột đá xanh nặng hai carats. Đeo nó có lợi cho con.

-

Con không đủ sức sắm vật ấy. Tuy nhiên, nếu con bị chuyện gì nguy cấp, con xin Thầy che chở cho con.

Sri Yukteswar trả lời với một vẻ bí hiểm:

- Trong vòng một năm, con sẽ đem đến đây ba hột ngọc bích, nhưng lúc bấy giờ thì những viên ngọc ấy không có ích gì cho con nữa.

Câu chuyện vẫn trở lại chung quanh một vấn đề. Sasi thú nhận với một sự tuyệt vọng đáng buồn cười:

-Con không thể tự sửa đổi! Đức tin của con đặt nơi Thầy, còn quý báu hơn mọi loại ngọc quí!

Một năm sau, tôi đến Calcutta cùng với Sư Phụ, người ở tại nhà một đệ tử tên là Naren Babu. Vào lúc mười giờ sáng, Sư Phụ và tôi đang ngồi nghỉ trong phòng khách trên lầu, thình lình tôi nghe tiếng mở cửa. Sư Phụ bèn nhỏm dậy và nói một cách nghiêm trọng:

-Sasi đã đến. Một năm vừa trôi qua, hai buồn phổi của y đã hỏng! Y không nghe lời Thầy. Con hãy nói rằng Ta không muốn tiếp y.

Tôi chạy xuống lầu thì thấy Sasi cũng đang lần từng bước thang đi lên.

-Mukunda, tôi hy vọng rằng Thầy có ở đây!

-Có, nhưng người không muốn bị ai quấy rầy.

Sasi vừa khóc sướt mướt vừa vượt qua trước mặt tôi để thụp xuống lạy Sư Phụ và đặt dưới chân người ba viên ngọc bích thật bích.

-Bạch Sư Phụ, các y sĩ nói rằng con bị chứng hoàn lao cấp số! Họ nói con sẽ không sống được tới ba tháng. Con khẩn cầu Sư Phụ giúp con vì con biết chỉ có Sư Phụ mới cứu được con.

-Phải chăng đã quá trễ để nghĩ đến việc cải tạo cuộc đời? Con hãy đi đi với những viên ngọc bích vô dụng này, thời kỳ hiệu nghiệm của nó đã qua rồi.

Sư Phụ nói xong thì chìm vào một cơn im lặng kéo dài, chỉ còn tiếng khóc nức nở của người thanh niên.

Tôi linh cảm rằng Sri Yukteswar chỉ nói vậy để thử thách đức tin của Sasi nơi quyền năng chữa bện của người. Bởi đó tôi không ngạc nhiên khi mà một giờ sau, Sư Phụ ban cho tôi một cái nhìn thương hại và nói:

-Con hãy đứng dậy, Sasi, và đừng làm mất sự yên tĩnh trong nhà người khác! Hãy trả các viên ngọc bích cho người kim hoàn vì hiện giờ đó là một sự phí tổn vô ích. Con đừng sợ, trong vài tuần con sẽ cảm thấy khỏi bệnh!

Một nụ cười chói sáng trên gương mặt đẫm lệ của Sasi chẳng khác nào như mặt trời xuất hiện sau cơn mưa:

-Bạch Sư Phụ, con cần phải uống thuốc chăng?

Sri Yukteswar tỏ ra giàu lòng tha thứ:

-Nếu con muốn. Uống thuốc hay không cũng chẳng hại gì. Dẫu cho mặt trời mặt trăng dời đi chỗ khác, con cũng không chết vì bệnh lao! Người nói thêm một cách đột ngột. Bây giời con hãy đi đi kẻo có khi ta lại đổi ý.

Sasi kiếu từ và rút lui. Trong những tuần lễ sau đó, tôi đến thăm y nhiền lần và lấy làm thất vọng mà sức khỏe của y càng ngày càng hao mòn.

-Sasi sẽ không qua khỏi đêm nay!

Lời tuyên bố của vị y sĩ và tình trạng nguy kịch của bạn tôi làm cho tôi phải hối hả lên đường đến đạo viện. Sư Phụ lạnh lùng nghe lời báo cáo của tôi trong khi tôi vừa nói vừa khóc vì xúc động.

-Tại sao con đến làm phiền ta như vậy? Ta há chẳng nói trước rằng Sasi sẽ khỏi bệnh sao?

Tôi kính cẩn cúi đầu trước Sư Phụ và âm thầm rút lui. Sư Phụ không nói gì những trầm mình trong im lặng, đôi mắt hé mở của người đang chiêm ngưỡng một cõi giới xa xăm nào. Tôi trở lại nhà Sasi ở Calcutta ngay khi đó và lấy làm vô cùng ngạc nhiên mà thấy bạn tôi đang ngồi tỉnh táo và uống sữa!

-Mukunda hỡi! Thật là kỳ diệu. Trong mấy tiếng đồng hồ qua, tôi cảm thấy trong phòng có sự hiện diện của Sư Phụ, ngay tức khắc chứng bệnh tôi liền thuyên giảm và biến tan đi mất. Tôi biết rằng chính nhờ Sư Phụ mà tôi được hoàn toàn bình phục!

Chỉ trong vài tuần, Sasi đã lên cân và sức khỏe dồi dào hơn bao giờ hết. Những sự khỏi bệnh của y lại có những hậu quả bất ngờ: y tỏ ra vô ơn bạc nghĩa, những cuộc viếng thăm đạo viện của y cũng thưa thớt lần lần. Một ngày nọ bạn tôi tâm sự với tôi rằng y cảm thấy hổ thẹn vì thái độ của mình đến nỗi y không dám đến gặp Sri Yukteswar.

Việc ấy đưa tôi đến kết luận rằng chứng bệnh của Sasi có cái hậu quả bất ngờ là làm cho y bị lệch lạc ý chí và không còn biết phép xử thế lịch sử ở đời!

Tôi thường bị xâm chiếm bởi những tư tưởng hoài nghi, vô thần. Tuy nhiên, một ý nghĩ băng khoăn đôi khi cũng thoáng qua trong trí tôi: linh hồn có hay chăng những tiềm năng chưa hề khai thác? Con người có lãng quên mục đích thật sự của mình chăng khi họ không quan tâm đến vấn đề này?

Dijen Babu, một người bạn học cùng lớp, tâm sự với tôi như thế khi tôi mời y đến viếng thăm đạo viện. Tôi bèn đáp:

-Sư Phụ Sri Yukteswar sẽ khai tâm cho anh theo pháp môn Kriya Yoga. Pháp môn này sẽ làm lắng dịu những sự cuồng loạn của ảo vọng bằng một sự giác ngộ thiêng liêng trong nội tâm.

Chiều hôm ấy, Dijen theo tôi đến đạo viện. Trước mặt Sư Phụ, bạn tôi cảm thấy một niềm an lạc thâm trầm xâm chiếm lấy tâm hồn y, và từ đó y thường đến viếng đạo viện luôn. Những điều lo lắng nhỏ nhạt của đời sống hằng ngày không đủ làm thỏa mãn con người, trong tánh chất của y cũng còn có sự khát khao chân lý. Trong những lời giảng huấn của Sri Yukteswar, Dijen nhận thấy một sự khích lệ thúc đẩy y tì kiếm tận nơi thâm sâu bí ẩn của nội tâm cái Chân Ngã bất diệt, khác hẳn với phàm ngã chật hẹp, ích kỷ của con người.

Dijen và tôi cùng theo học ban Cử Nhân tại trường Serampore College, trực thuộc trường đại học Calcutta và thường có thói quen đến đạo viện ngay sau giờ học. Sri Yukteswar thường nhìn thấy chúng tôi từ trên bao lơn từng lầu hai và tiếp đón chúng tôi với một nụ cười.

Một hôm, Kanai, một đệ tử trẻ nội trú tại đạo viện, đợi chúng tôi ở ngoài cửa và nói:

-Sư Phụ hôm nay vắng mặt, người có việc gấp phải đi Calcutta.

Ngày hôm sau, tôi nhận được một bử phiếu của Sư Phụ viết như sau: “Thầy sẽ rời khỏi Calcutta sáng ngày thứ Tư, con và Dijen hãy đón Thầy ở ga Serampore trên chuyến xe lửa 9 giờ.”

Sáng thứ Tư, vào lúc 8 giờ rưỡi, một thông điệp thần giao cách cảm của Sư Phụ đi xuyên qua trí tôi: “Thầy mắc bận vào giờ chót, đừng đón chuyến xe 9 giờ.”

Tôi liền báo tin cho Dijen, y đã sửa sọan ra đi những nghe tin ấy thì nói với giọng bất mãn.

-Anh cứ hay nói chuyện linh cảm với linh giác! Tôi chỉ tin những việc đó khi nào có chữ viết của Sư Phụ.

Tôi nhún vai, lặng lẽ ngồi xuống và quyết định ở lại, Dijen vừa bước ra cửa vừa nói lầm bầm và đóng sầm cánh cửa khi đi ra.

Trong phòng hơi u ám, tôi bèn đi đến chỗ cửa sổ trổ ra ngoài đường. Bỗng nhiên ánh sáng dịu lúc ban mai đổi thành một thứ ánh sáng chói lòa trong đó cửa sổ song sắt hoàn toàn biến mất dạng. Trên sàng gạch chói sáng, đứng sừng sững giữa phòng chính là Sri Yukteswar bằng xương bằng thịt rõ ràng!

Bàng hoàng và vô cùng kinh ngạc, tôi thụp xuống dưới chân Sư Phụ và sờ nhẹ hai bàn chân người để tỏ lòng tôn kính như thường lệ. Sư Phụ mang đôi giày bố màu da cam, đến giày bằng da dừa; tôi nhận ra một cách rõ ràng đó là đôi giầy mà Sư Phụ vẫn thường dung hằng ngày. Chiếc vạt áo màu vàng sậm của người phất qua đụng da mặt tôi, tôi cảm xúc được không những cái vạt áo mà còn nhận thấy mặt nhám của đôi giày bố và hai ngón chân cái cộm lên ở bên trong. Quá xúc động đến không thể nói chuyện được, tôi chỉ có thể nhìn Sư Phụ bằng cặp mắt dọ hỏi:

-

Thầy rất vui lòng mà thấy con nhận được bức thông điệp thần giao cách cảm của Thầy.

Giọng nói của Sư Phụ vẫn bình thường không thay đổi.

-

Thầy không thể hoàn tất mọi công việc kịp thời ở Calcutta và sẽ về đến Serampore trên chuyến xe lửa 10 giờ.

Câm lặng vì ngạc nhiên, tôi vẫn tiếp tục nhình Sư Phụ. Sri Yukteswar nói tiếp:

-Không, đây không phải là một sự hiện hình, mà chính là Thầy bằng xương bằng thịt. Thầy ban cho con cái kinh nghiệm hiếm có này do bởi Thiên Ý. Con hãy đợi Thầy tại nhà ga, Dijen và con sẽ gặp Thầy cũng trong bộ áo Thầy đang mặc lúc này, và đi trước Thầy có một thiếu nhi cầm một cái bình bằng bạc.

Sư Phụ bèn đặt hai bàn tay lên đầu tôi và nói thì thầm những lời ban ân huệ. Vừa dứt lời thì tôi nghe một tiếng động đặt biệt. Thể xác của Sư Phụ từ từ tan rã trong ánh sáng chói lòa. Hai bàn chân, rồi hai chân biến mất trước hết, kế đó tới thân mình và đầu, cũng ví như một cuộn giấy bị cuốn tròn lại. Cho đến phút chót, tôi cảm thấy sự đụng chạm nhẹ nhàng của những ngón tay luồn trong mái tóc tôi. Trong giây lát, ánh sánh chói lọi lúc nãy đã lu mờ dần, tôi chỉ còn nhìn thấy cái cửa sổ song sắt và những tia nắng mặt trời êm dịu.

Tôi chìm trong một cơn bàng hoàng như tỉnh như mê và tự hỏi phải chăng đó là một cơn nắng quáng đèn lòa, khiến cho tôi nhìn thấy một ảo ảnh. Trong lúc đó, Dijen mặt mày ngơ ngác bước vào gian phòng và nói:

-Sư Phụ không về trên chuyến xe 9 giờ, và luôn cả chuyến xe 9 rưỡi! Bạn tôi nói câu đó dường như để xin lỗi.

-Anh hãy đi theo tôi! Tôi biết Sư Phụ sẽ về trên chuyến xe 10 giờ.

Tôi kéo Kijen đi theo tôi, hầu như cưỡng bách, mặc dù y không bằng lòng. Mười phút sau chúng tôi đến nhà ga thì chuyến xe cũng vừa đến. Tôi kêu lên:

-Hào quang của Sư Phụ chói lòa khắp các toa xe lửa! Người đã về!

-Anh chỉ tưởng tượng! Dijen nói giọng châm biếm.

-Chúng ta hãy đợi ở đây.

Tôi diễn tả từng chi tiếh hình dáng của Sư Phụ khi người sẽ trở về. Tôi vừa nói xong thì Sri Yukteswar đã xuất hiện với bộ áo vàng sậm mà tôi đã thấy từ lúc nãy. Người đi chậm bước và theo sau một đứa trẻ nhỏ mang một cái bình bằng bạc.

Trong một lúc tôi cảm thấy lạnh mình vì kinh hãi trước sự kiện lạ lùng vừa xảy ra. Cả một bầu thế giới quen thuộc của thế kỷ 20 duy vật dường như sụp đổ trước đôi mắt ngạc nhiên của tôi, tôi tưởng chừng như sống thụt lùi trở lại thời kỳ mà đức Jesus xuất hiện trước thánh Pierre trên bờ biển Galilée!

Khi Sri Yukteswar đi đến chỗ mà Dijen và tôi ngồi bàng hoàng và câm lặng vì kinh sợ, Sư Phụ vừa mỉm cười vừa nói với người bạn tôi:

Ta cũng có gửi đến cho con một thông điệp, nhưng con không nhận được.

Dijen lặng thinh và nhìn tôi với một vẻ nghi ngờ. Sau khi đưa Sư Phụ về đạo viện, chúng tôi đi đến trường đại học Serampore College. Dijen ngừng lại giữa đường và nói với giọng bực tức:

- À, thì ra là như vậy! Sư Phụ có gửi thông điệp cho tôi! Tại sao anh dấu tôi? Anh phải trả lời cho tôi rõ.

Có phải lỗi tại tôi chăng nếu tấm gương của linh hồn anh quá lu mờ nên không thể phản chiếu những thông điệp của Sư Phụ?

Dijen liền bình tĩnh lại ngay và nói với một giọng đầy hối hận:

-Tôi hiểu anh muốn nói gì. Nhưng anh hãy giải thích do đâu mà anh biết trước có một đứa trẻ nhỏ mang một cái bình bằng bạc?

Khi tôi vừa kể hết câu chuyện Sư Phụ xuất hiện một cách nhiệm mầu hồi lúc sáng sớm, thì chúng tôi đã đến trước cửa trường Serapore. Dijen bèn kết luận:

Những gì tôi vừa được nghe về quyền năng của Sư Phụ làm cho tôi nghĩ rằng tất cả những trường đại học của thế giới chỉ là những vườn chơi trẻ con!

--- o0o ---


Source: www.tamlinh.net

Trình bày: Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
19/01/2022(Xem: 7499)
Dân tộc Việt Nam học và hành theo giáo lý Phật thuyết trên dưới hai nghìn năm trước khi Pháp sư Huyền Trang quy Phật cũng trên sáu thế kỷ, tuy vậy cho đến nay chúng đệ tử Phật, xuất gia cũng như tại gia, biết đến công hạnh của Ngài rất ít, và cũng biết rất ít di sản Kinh Luận của Ngài cho Phật tử Việt nam học và hiểu giáo pháp của Đức Thế Tôn một cách chân chính để hành trì chân chính. Bản dịch Đại Đường Tây vực ký của Hòa Thượng Như Điển với sự đóng góp của Cư sĩ Nguyễn Minh Tiến bổ túc cho sự thiếu sót này. Từ những hiểu biết để thán phục, kính ngưỡng một Con Người vĩ đại, hãn hữu, trong lịch sử văn minh tiến bộ của nhân loại, một vị Cao Tăng thạc đức, với nghị lực phi thường, tín tâm bất hoại nơi giáo lý giải thoát, một thân đơn độc quyết vượt qua sa mạc nóng cháy mênh mông để tìm đến tận nguồn suối Thánh ngôn rồi thỉnh về cho dân tộc mình cùng thừa hưởng nguồn pháp lạc. Không chỉ cho dân tộc mình mà cho tất cả những ai mong cầu giải thoát chân chính.
04/01/2022(Xem: 8410)
Không hiểu sao mỗi khi nhớ về những sự kiện của năm 1963 lòng con bổng chùng lại, bồi hồi xúc động về quá khứ những năm đen tối xảy đến gia đình con và một niềm cảm xúc khó tả dâng lên...nhất là với giọng đọc của Thầy khi trình bày sơ lược tiểu sử Đức Ngài HT Thích Trí Quang ( một sưu tầm tài liệu tuyệt vời của Giảng Sư dựa trên “ Trí Quang tự truyện “ đã được đọc tại chùa Pháp Bảo ngày 12/11/2019 nhân buổi lễ tưởng niệm sự ra đi của bậc đại danh tăng HT Thích Trí Quang và khi online cho đến nay đã có hơn 45000 lượt xem). Và trước khi trình pháp lại những gì đã đươc nghe và đi sâu vào chi tiết bài giới thiệu Bộ Pháp Ảnh Lục cùng lời cáo bạch của chính Đức Ngài HT Thích Trí Quang về bộ sách này, kính trich đoạn vài dòng trong tiểu sử sơ lược của HT Thích Trí Quang do Thầy soạn thảo mà con tâm đắc nhất về;
04/01/2022(Xem: 7177)
Trên đất nước ta, rừng núi nào cũng có cọp, nhưng không phải vô cớ mà đâu đâu cũng truyền tụng CỌP KHÁNH HÒA, MA BÌNH THUẬN. Tỉnh Bình Thuận có nhiều ma hay không thì không rõ, nhưng tại tỉnh Khánh Hòa, xưa kia cọp rất nhiều. Điều đó, người xưa, nay đều có ghi chép lại. Trong sách Hoàng Việt Nhất Thống Dư Địa Chí (1) của Thượng Thư Bộ Binh Lê Quang Định soạn xong vào năm 1806 và dâng lên vua Gia Long (1802-1820), tổng cộng 10 quyển chép tay, trong đó quyển II, III và IV có tên là Phần Dịch Lộ, chép phần đường trạm, đường chính từ Kinh đô Huế đến các dinh trấn, gồm cả đường bộ lẫn đường thủy. Đoạn đường ghi chép về ĐƯỜNG TRẠM DINH BÌNH HÒA (2) phải qua 11 trạm dịch với đoạn đường bộ đo được 71.506 tầm (gần 132 km)
04/01/2022(Xem: 6080)
Ngoài tên “thường gọi” là Cọp, là Hổ, tiếng Hán Việt là Dần, cọp còn có tên là Khái, là Kễnh, Ba Cụt (cọp ba chân), Ba Ngoe (cọp ba móng), Ông Chằng hay Ông Kẹ, Ông Dài, Ông Thầy (cọp thành tinh). Dựa vào tiếng gầm của cọp, cọp còn có tên gọi là Hầm, là Hùm, dựa vào sắc màu của da là Gấm, là Mun ... Ở Nam Bộ cò gọi cọp là Ông Cả, vì sợ cọp quấy phá, lập miếu thờ, tôn cọp lên hàng Hương Cả là chức cao nhất trong Ban Hội Tề của làng xã Nam Bộ thời xưa. Cọp cũng được con người gọi lệch đi là Ông Ba Mươi. Con số ba mươi này có nhiều cách giải thích: - Cọp sống trung bình trong khoảng ba mươi năm. - Cọp đi ba mươi bước là quên hết mọi thù oán. - Xưa, triều đình đặt giải, ai giết được cọp thì được thưởng ba mươi đồng, một món tiền thưởng khá lớn hồi đó. - Tuy nhiên, cũng có thời, ai bắt, giết cọp phải bị phạt ba mươi roi, vì cho rằng cọp là tướng nhà Trời, sao dám xúc phạm (?). Ngày nay, cọp là loài vật quý hiếm, có trong sách Đỏ, ai giết, bắt loài thú này không những bị phạt tiền mà còn ở
30/12/2021(Xem: 6995)
Tối ngày 11/02 âm lịch (03/03/2012), vào lúc 10 giờ tối, lúc đó tôi niệm Phật ở dưới hai cái thất mà phía trên là phòng của Sư Ông. Khi khóa lễ vừa xong, bỗng nghe (thấy) tiếng của đầu gậy dọng xuống nền phát ra từ phòng của Sư Ông. Lúc đó tôi vội vàng chạy lên, vừa thấy tôi, Ông liền bảo: “Lấy cái đồng hồ để lên đầu giường cho Sư Ông và lấy cái bảng có bài Kệ Niệm Phật xuống” (trong phòng Sư Ông có treo cái bảng bài Kệ Niệm Phật). Khi lấy xuống Sư Ông liền chỉ vào hai câu: Niệm lực được tương tục, đúng nghĩa chấp trì danh, rồi Sư Ông liền chỉ vào mình mà ra hiệu, ý Sư Ông nói đã được đến đây, sau khi ngồi hồi lâu Sư Ông lên giường nghỉ tiếp.
25/12/2021(Xem: 5286)
Cảo San đường Tuệ Nguyên Đại Tông sư (고산당 혜원대종사, 杲山堂 慧元大宗師) sinh ngày 8 tháng 12 năm 1933 tại huyện Ulju, Ulsan, một thành phố nằm ở phía đông nam Hàn Quốc, giáp với biển Nhật Bản. Ngài vốn sinh trưởng trong tộc phả danh gia vọng tộc, phụ thân Họ Ngô (해주오씨, 海州吳氏), Haeju, Bắc Triều Tiên và tộc phả của mẫu thân họ Park (밀양박씨, 密陽朴氏), Miryang, Gyeongsangnam-do, Hàn Quốc. Năm lên 7 tuổi, Ngài được sự giáo huấn của người cha kính yêu tuyệt vời, cụ đã dạy các bộ sách Luận ngữ, Mạnh Tử, Thích Độ, Đại Học, Tứ Thư và học trường tiểu học phổ thông. Vào tháng 3 năm Ất Dậu (1945), khi được 13 tuổi, Bồ đề tâm khai phát để làm tiền đề cho Bát Nhã đơm bông, Ngài đảnh lễ Đại Thiền sư Đông San Tuệ Nhật (동산혜일대선사, 東山慧日大禪師, 1890-1965) cầu xin xuất gia tu học Phật pháp. Thật là “Đàm hoa nhất hiện” khi những sợi tóc não phiền rơi rụng theo từng nhát kéo đong đưa. Tháng 3 năm 1948, Ngài được Hòa thượng Bản sư truyền thụ giới Sa di tại Tổ đình Phạm Ngư Tự (범어사, 梵魚寺), Geumjeong-gu, Busan, Hàn Qu
23/12/2021(Xem: 3967)
Chánh Điện của một ngôi Chùa tại xứ Đức, cách đây hơn 40 năm về trước; nơi có ghi hai câu đối: "Viên thành đạo nghiệp Tây Âu quốc. Giác ngộ chúng sanh đạo lý truyền", bây giờ lại được trang hoàng thật trang nghiêm và rực rỡ với các loại hoa. Đặc biệt nhất vẫn là những chậu cây Trạng Nguyên nhỏ to đủ kiểu, nổi bật nhất vẫn là những chiếc lá đỏ phía trên phủ lên những chiếc lá xanh bên dưới. Ai đã có ý tưởng mang những cây Nhất Phẩm Hồng, có nguồn gốc ở miền Nam Mexico và Trung Mỹ vào đây? Và theo phong thủy, loại cây này mang đến sự thành công, đỗ đạt và may mắn.
10/12/2021(Xem: 8491)
Bản dịch này cũng đã đăng tải trong các số báo đặc san Pháp Bảo, từ số 2, tháng 5 năm 1982 và còn tiếp tục đăng tải cho đến nay. Loạt bài đăng trong báo sẽ được chấm dứt trong vài kỳ báo nữa, vì các phần sau tuy cần thiết đối với người muốn nghiên cứu, nhưng lại trở nên khô khan với người ít quan tâm tới sử liệu Phật Giáo. Đó là lý do quý vị chỉ tìm thấy bản dịch được đầy đủ chỉ có trong sách này. Trong khi dịch tác phẩm, cũng như trong khoảng thời gian còn tòng học tại Nhật Bản, chúng tôi tự nghĩ: không hiểu sao Phật giáo đã du nhập vảo Việt Nam từ thế kỷ thứ 2, thứ 3 mà mãi cho tới nay vẫn chưa có được những cuốn sách ghi đầy đủ các chi tiết như bộ “Các tông phái Phật Giáo Nhật Bản” mà quý vị đang có trong tay. Điều mong mỏi của chúng tôi là Phật Giáo Việt Nam trong tương lai cố sao tránh bớt vấp phải những thiếu sót tư liệu như trong quá khứ dài hơn 1500 năm lịch sử truyền thừa! Để có thể thực hiện được điều này, cần đòi hỏi giới Tăng Già phải đi tiên phong trong việc trước t
09/12/2021(Xem: 22916)
Cách đây vài ngày đọc trên một tờ báo tại Sydney , khi nói về chủng thể Omicron vừa phát tán và lây lan do xuất phát từ các nước Nam Phi , tôi chợt mỉm cười khi đọc được câu này " Chúng ta đã học từ nạn đại dịch một điều rằng : Đừng nên hy vọng một điều gì , vì chắc chắn điều mình hy vọng ấy sẽ chỉ là THẤT VỌNG " If there’s one thing COVID has taught us , it is to expect nothing, except disappointment . What it comes to that COVID really delivers
08/12/2021(Xem: 4606)
Già San Đường Trí Quán Đại Tông Sư, vị đại học giả, vị Luật sư, Thiền sư nổi tiếng, vị Tổng vụ trưởng xuất sắc trong việc quản lý các vấn đề hành chính Phật giáo. Ngài được ca tụng lảu thông Tam tạng giáo điển, lý sự viên dung. Già San Đường Trí Quán Đại Tông Sư (가산당 지관대종사, 伽山堂 智冠大宗師, 1932-2012) tục danh Lý Hải Bằng (이해붕, 李海鵬), theo tộc phả tên Chung Bằng (종붕, 鍾鵬), Tổng vụ Viện trưởng Thiền phái Tào Khê đời thứ 32, Phật giáo Hàn Quốc, hiệu Già Sơn đường Trí Quán Đại tông sư (가산당지관대종사, 伽山堂智冠大宗師), sinh ngày 14/6/1932 (05/11/Nhâm Thân), nguyên quán làng Cheonghae-myeon, huyện Gyeongju, tỉnh Gyeongsangbuk-do, Đại Hàn. Phụ thân của Ngài là cụ ông Lý Khuê Bạch (이규백, 李圭白) và Hiền mẫu của Ngài là cụ bà Kim Tiên Y (김선이, 金先伊). Gia đình truyền thống Phật giáo lâu đời, kính tin Tam bảo.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]